Nhà tôi ở gần đường nhưng cũng cô quạnh. Tối đến, bố tôi thường chong đèn khoảng một tiếng để chấm bài cho học trò. Hằng ngày, sau giờ đi dạy ông lên rừng kiếm củi, xúc tép dưới suối, trồng khoai, bắp trên đồi và luyện một bài sáo tên là "Bèo dạt mây trôi".
Tối đến, quanh vòng sáng của chiếc đèn dầu hỏa mùi khét lẹt, bố chấm bài, mẹ ngồi đan len. Những cuộc len mót lại từ áo cũ đứt nối liên tiếp. Em Hà ngủ trên đùi mẹ, tôi thì đem bút chì ra vẽ ngay cạnh bố. Một nhịp sống đều đặn quanh ánh sáng hiếm hoi mà ấm cúng. Tháng ngày cứ thế trôi...
Một hôm, tôi bị sốt nên nghỉ học ở nhà một mình. Mẹ đưa em Hà đến cửa hàng, bố đi dạy. Vì sợ các góc tối trong nhà nên tôi cứ lảng vảng ngoài sân. Bỗng có một người lạ xuất hiện. Thấy tôi, người đó thò tay qua nan gỗ của cánh cổng gọi với vào trong:
- Ê nhóc, nhà thầy Bình phải không?
Tôi sợ hãi bởi thấy người này ăn mặc có vẻ phong trần, tay chân nhiều vết sẹo như dân từ bãi vàng hay xẻ gỗ về. Tôi từng nghe cha tôi kể về người đàn ông tên Mẫn ở rừng Nậm Pu. Ông Mẫn rất ngại xuống núi. Một lần, lên núi chiêu sinh, cha tôi gặp và hứa sẽ đưa người con của ông Mẫn xuống thị trấn học cho nên người. Nhưng rồi chính cha tôi lại trôi dạt đến cái vùng xa xôi này. Chẳng biết tại sao, anh Chiến - con ông Mẫn, vẫn tìm được nhà tôi.
Bố tôi thận trọng hỏi:
- Thế sao học hết lớp 5 cháu lại đi đãi vàng?
- Cháu thấy bụng đói thì chẳng làm được gì. Cháu theo người ta đi đãi vàng, đủ cho bố cháu mua thóc ăn ba năm. Giờ cháu lại xin thầy con chữ.
Cha tôi lấy cái đèn cất kỹ trong gầm tủ ra thắp lên sáng trưng. Thường phải có việc đại sự ông mới thắp cái đèn này. Rồi tiện tay ông vớ lấy kéo cắt phăng đám tóc rối bù của anh Chiến. Mẹ tôi đun nước lá thơm giục anh tắm gội.
Sáng hôm sau nhìn anh mặc bộ quần áo cũ của bố tôi, đi dép nhựa trắng, xách cái cặp da cũ đi theo bố tôi đến trường nom chẳng còn chút gì phong trần nữa.
Từ lúc anh xuất hiện, nhà tôi có nhiều sự thay đổi. Cái hiên được thưng ván, cơi nới ra thành phòng học. Chiều chiều anh lên đồi cuốc đất trồng thêm đậu, bắp... Nhưng cây chưa ra trái thì thùng gạo nhà tôi đã vơi, anh Chiến ăn khỏe như một bác lực điền nhưng rất hay mơ mộng. Nghe bảo đi học trên lớp Toán anh quên sạch các công thức từ hồi cấp I nhưng lại ngồi viết thư cho chị nào đó rất hay. Bố tôi bảo chẳng biết sau này anh làm nghề gì...
Minh họa: Võ Văn
Thế rồi bất ngờ tiếng súng nổ trên chiến trường biên giới trong mùa xuân năm ấy. Trưa hôm ấy bố tôi hớt hải chạy về: “Thằng Chiến đâu, có ở nhà không?”. Mẹ tôi lắc đầu rồi nhìn ra phía bên kia sườn núi nơi có con đường mòn quanh co ra huyện. Anh Chiến xung phong ra trận thật. Anh cứ đi như thế, bỏ lại sách vở và bao câu hỏi.
Cái tin anh Chiến hy sinh đến trước lá thư anh gửi về cho gia đình tôi. Trong căn phòng được thưng bằng bìa gỗ của anh, đồ đạc khá ngăn nắp, thứ duy nhất mà anh để lại là chiếc hòm gỗ thông anh mang theo từ khi đến nhà tôi luôn được khóa chặt.
Nhiều năm sau khi chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống trở lại thanh bình. Tôi về thi đỗ đại học rồi ở lại Hà Nội làm việc.
Bố mẹ tôi già đi theo năm tháng. Từng ngón tay chậm lại, mẹ tôi đeo kính đan từng sợi len như muốn níu lại từng tích tắc cuộc đời. Không còn mối nối, từng sợi len mượt đằng đẵng. Đến một ngày cha tôi không còn dạy thêm cho bọn trẻ nữa. Chúng đạp xe ào đi trên con đường dải bê tông đến nhà cô giáo trẻ luyện đề thi. Ông giáo già lại lấy cây sáo trúc thổi bài "Bèo dạt mây trôi" để lũ chim non rớt xuống từ cái tổ sau vườn sau một trận bão tập hót líu lo.
Bố mẹ tôi đem chuyện ăn củ mài, củ sắn độn ngày xưa ra kể khiến cho bọn trẻ con, cười thích thú. Tụi trẻ ăn của ngon, vật lạ chán chê giờ lại thích mấy món con nhà nghèo.
Chiều bọn trẻ, tôi vác cuốc lên đồi tính đào khoai lang mầm. Lâu không lao động, mồ hôi tứa ra, thở hồng hộc ra cả đằng tai. Bỗng tôi cuốc phải vật gì khiến lưỡi cuốc bật ra. Một bọc ni lông buộc kín, có vẻ mưa nắng vẫn chưa xâm nhập được vào bên trong. Tôi thận trọng mở ra, bên trong có một chiếc chìa khóa đồng đã hoen rỉ. Tôi đem về, lặng lẽ ngâm dầu, tẩy sạch lớp ô xy hóa, những chiếc răng cưa hiện ra như một câu đố thách thức bộ não của tôi.
Chiếc chìa khóa này có phải là sự lãng quên, sự che giấu hay trò tinh quái của ai chăng? Tôi bắt đầu tò mò tra vào từng ổ khóa trong nhà nhưng đều không được. Tôi từ bỏ sự tò mò ấy và đem những chuyện xưa ra ôn lại nhằm khôi phục bộ não đã mờ dần những vết hằn của bố tôi. Giờ trước mặt tôi là một ông cụ lẩn thẩn, tóc bạc, hay cáu kỉnh.
Đột nhiên, bố tôi bảo:
- Sao chẳng ai mở cái hòm của anh Chiến ra nhỉ?
Ông thường hay có cách nói như thế. Bao giờ cũng đặt câu hỏi về “ai” vu vơ xa xôi nhưng thực ra muốn nói ra ý muốn của mình. Tôi thử lấy chiếc chìa khóa ra mở, ổ khóa vẫn đứng im. Cha tôi trầm ngâm một lát rồi nhắc:
- Đừng tra sâu quá, để dư một mẩu, xoay xem.
Tiếng ổ khóa kêu “tách”. Bên trong chiếc hòm là những cuốn sổ đã ố vàng, chiếc bút máy Trường Sơn đã khô mực và một vài thứ đồ kỷ niệm. Tôi khẽ mở lá thứ được gấp theo kiểu cánh chim từ chiếc phong bì được làm từ giấy thếp. Trong thư, anh Chiến viết: “Anh chưa biết chiến tranh như thế nào nhưng xác định sẽ không ngại nơi cam go nguy hiểm nhất. Anh muốn đi bộ đội là phải đến nơi giằng co quyết liệt nhất để có chết cũng xứng đáng với mảnh đất mình sinh ra. Quê anh sau rừng Nậm Pu có con suối chảy róc rách quanh năm không hết nước. Anh tin rằng sau ba năm nếu anh không về, em sẽ mở chiếc hòm này ra vì em là một đứa trẻ. Em hãy cùng thầy về quê một lần xem bố của anh sức khỏe ra sao, nhà anh ở...”.
Tôi lặng người. Cha tôi hỏi nhưng tôi không nói. Giờ đã là hai mươi năm, hai mươi năm sau chiến tranh chứ có ít ỏi gì nữa. Nói ra được ích gì? Trong từng lá thư chưa gửi, anh Chiến viết cho người mẹ đã đi xa, cho người bạn bị liệt chân mà hằng ngày anh mang cá suối và bài đến cho người đó học. Một bà cụ mù lòa nghe anh kể về các loài hoa. Một người bán hàng dưới chợ mất con cứ nhận lầm anh là đứa con lưu lạc trở về...
Tôi theo chân người bà con ở xóm nhỏ dưới chân Nậm Pu ngược dốc. Mộ của bố anh Chiến nằm ngay sườn đồi. Bên cạnh là ngôi mộ của anh. “Thực ra lập cho vơi bớt nỗi đau chứ có xương cốt gì đâu. Giờ Chiến nằm đâu đồng đội còn chưa tìm được” - người họ hàng đã nói với tôi như thế. Tôi cũng tin dù nằm lại ở nơi nào thì với anh đó cũng là quê hương.
Tổng hợp nhiều nguồn
Khi tiếng kèn cất lên du dương thì hết thảy đàn ông, đàn bà và trẻ con từ trong các ngôi nhà gần đấy cùng ùa ra. Họ nhìn trân trân vào Ali, rồi lắng tai nghe.
Nghi lễ rước Mẫu vân du tại lễ hội đền Mẫu Phố Cò được phục dựng với mong muốn bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng cộng đồng người Việt, đặc biệt là Tín ngưỡng t...
Diễn xuất xuất sắc của NSƯT Võ Hoài Nam trong một cảnh phim bùng nổ cảm xúc ở "Những chặng đường bụi bặm" khiến đoàn phim ngả mũ.
Mất 11 năm đạo diễn Bùi Thạc Chuyên mới có thể đưa "Địa đạo" lên màn ảnh. Anh từ chối hãng phim nước ngoài để thực hiện bộ phim tại Việt Nam. "Địa đạo là bộ phim vất vả n...
Chánh văn phòng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nguyễn Danh Hoàng Việt thông tin tới PV VietNamNet rằng "đã chỉ đạo Cục Phát thanh truyền hình tìm hiểu vụ ồn ào của ViruS...
Rút kinh nghiệm khi đang học bài, có bạn gọi đừng bao giờ thưa.
Một cặp bố con đã bị tịch thu 95,5kg vàng cùng các vật phẩm có giá trị khác vì bị nghi ngờ về nguồn gốc.