Nhà hát Lớn Hải Phòng, một buổi tối đầu hè năm 2025.
Sắp đến giờ biểu diễn.
Khán phòng chật kín người, cả tầng một và tầng hai, lộng lẫy trong ánh sáng của những chùm đèn pha lê lớn được thả xuống từ mái vòm thiết kế theo kiểu Gothic. Không ai nói chuyện to, không ai nhốn nháo hay nghển cổ nhìn quanh. Mọi ánh mắt đều hướng lên sân khấu, nơi tấm màn nhung đỏ sẫm sắp hé mở. Vở nhạc kịch Khúc tráng ca màu đỏ, vừa đoạt Huy chương Vàng tại Liên hoan quốc tế ở Pháp, sẽ được trình diễn một đêm duy nhất tại đây, như một món quà đặc biệt trong chuỗi sự kiện kỷ niệm 70 năm Giải phóng Hải Phòng và 50 năm thống nhất đất nước.
Ở giữa lô ghế F, hàng thứ ba, một người đàn ông tóc bạc phơ lặng lẽ ngồi im như pho tượng. Bộ comple sẫm màu, hai khuỷu tay chống nhẹ vào hai bên thành ghế, các ngón tay đan chéo vào nhau, mắt chăm chú hướng thẳng lên sân khấu. Đó là Nghệ sĩ Nhân dân Quốc Dụng - tác giả của vở nhạc kịch. Ông cũng chính là một trong số rất ít người may mắn sống sót sau trận đánh cuối tháng 11 năm 1946 tại chính địa điểm này, trận chiến ác liệt đầu tiên của thành phố Cảng sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trận chiến mở màn cho âm mưu và chiến dịch đánh chiếm toàn bộ Hải Phòng, mà sau này có người còn coi đó là một cuộc thảm sát đẫm máu của quân đội Pháp.
Tấm màn nhung dày khẽ rung lên, hé ra một khe nhỏ rồi từ từ rộng mở, toàn cảnh sân khấu hiện ra với hình ảnh bức tượng thần âm nhạc màu trắng được đặt ngay chính giữa. Tiếng vỹ cầm ngân lên những âm thanh du dương của khúc nhạc dạo đầu. Ông Dụng ngả nhẹ người ra sau ghế, mắt từ từ khép hờ lại, nhịp thở của ông dường như trở nên nhẹ bẫng. Vở nhạc kịch tâm huyết nhất, mong chờ nhất của cuộc đời ông đã bắt đầu, tại chính nơi đây, không gian của nghệ thuật và cũng từng là một chiến trường, một đài tưởng niệm. Âm nhạc chuyển nhịp mạnh mẽ, cuốn vào tiếng vọng sân khấu và cuộn lên trong tâm trí người nghệ sĩ già cả một miền ký ức bi hùng: “Hải Phòng! Nảy lửa trong lòng Nhà hát Lớn/ Mười ba quyết tử cười hơn hớn/ Còn viên đạn cuối cùng/ Nhà hát rung...”.
***
Tháng 11 năm 1946.
Hải Phòng âm ỉ như một đống tro ủ, chỉ cần gió thốc lên là đỏ rực.
Sau Hiệp ước Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, với âm mưu xâm lược một lần nữa, ngay từ khi đổ bộ lên bờ, thực dân Pháp đã bộc lộ âm mưu đánh chiếm Hải Phòng để làm bàn đạp thực hiện dã tâm chiếm miền Bắc, thôn tính Việt Nam. Đến tháng 10, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, địch đã lập xong một kế hoạch chi tiết để đánh chiếm Hải Phòng.
Nhà hát Lớn những ngày ấy không sáng đèn, không rộn ràng náo nhiệt kẻ ra người vào theo những suất diễn như thời gian trước. Nhưng từ giữa tháng 11, Đội tuyên truyền văn hóa Chiến khu III và một số văn nghệ sỹ từ Hà Nội về tập luyện tại đây. Họ đang miệt mài chuẩn bị cho đêm ca nhạc kịch sẽ chính thức được trình diễn phục vụ đông đảo khán giả Hải Phòng vào tối ngày 19 tháng 11 sắp tới.
Đội trưởng Nguyễn Văn Đạo bước vào khán phòng của nhà hát khi anh em nghệ sỹ đang tập lại bản hợp ca. Anh vừa sang gặp lãnh đạo Ủy ban hành chính thành phố để báo cáo tình hình chuẩn bị cho đêm diễn. Ngồi chính giữa hàng ghế đầu của khán phòng Nhà hát, anh chăm chú theo dõi anh em tập luyện dưới sự chỉ đạo của Phan Tại, một nghệ sỹ đa tài và cũng là người bạn, người đồng hương thân thiết của anh. Trên sân khấu, người được Đạo giao trách nhiệm thiết kế và đạo diễn toàn bộ chương trình của buổi biểu diễn này đang say sưa trong từng nhịp điệu, có lúc cúi rạp xuống ra hiệu người thổi kèn đổi lại tiết tấu, khi chỉnh tư thế đứng của diễn viên, lúc lại đứng thẳng giữa sân khấu, tay khua như một nhạc trưởng: “Lại nào, từ đoạn hai nhé! Hãy hát thật sôi nổi và tự hào, hát như thể sau lưng mình là cả Hải Phòng đang nghe ấy!”. Rồi khi cả dàn đồng ca đang ngon trớn, Phan Tại bỗng đột ngột gắt: “Dừng!”. Mọi âm thanh ngừng bặt. Anh chỉ về phía nhóm bè, giọng hơi bực: “Bè kiểu gì đấy, vẫn có người lệch tông. Phải chú ý vào chứ, tuy là vocal nhưng không hề vô can tí nào đâu, nhớ chưa!”
Đạo bật cười trước lối vận dụng từ đồng âm của Phan Tại. Anh đứng lên khỏi chỗ ngồi, gọi với lên sân khấu: Anh Tại ơi, có vẻ anh em hơi mệt rồi, đạo diễn cho anh em nghỉ giải lao mấy phút, ăn tấm mía vừa giải khát vừa ngọt giọng nào!”. Có tiếng nói hưởng ứng: Phải đấy ạ, sáng nay tập hơi căng, anh cho chúng em giải lao tí đi!”. Phan Tại nhìn về phía Quốc Dụng, giọng nam chính của đội, người vừa lên tiếng hưởng ứng. Anh ngần ngừ: “Đã ăn thua gì mà căng... Thôi được, giải lao mười lăm phút”.
Nhà hát lớn Hải Phòng những năm 1946 -1955- Ảnh: Võ An Ninh
Cả đội phấn khởi ào xuống dưới. Hai cô diễn viên múa đỡ lấy rổ mía Đạo vừa bưng lên, đùa ríu rít: Đội trưởng tâm lý hết ý luôn!”. Đạo bông đùa: Mía tím Thủy Nguyên sang đấy anh em ạ. Không phải tôi tâm lý gì đâu, mà ban nãy đi qua đò Bính, thấy cô bán mía xinh quá nên mua khá nhiều, anh em cứ xơi thoải mái nhé!”. Cả đội cười ào.
Phan Tại tiến đến ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Đạo, trách đùa:
- Anh là chiều anh em lắm đấy nhé!
Đạo bật cười, nhún vai:
- Chiều thì chiều, miễn là trong đêm diễn, không ai vỡ bài là được.
Dụng tiến lại gần, tay còn cầm nửa khúc mía đang ăn dở, giọng hồ hởi:
- Em nói thật đấy anh Tại ạ, cái đoạn cao trào ấy, ban nãy em suýt hụt hơi. Nhưng phải thừa nhận, khó nhưng mà hay, đầy cảm xúc, cứ hát đến đoạn đấy là người em như có điện giật!
Phan Tại phá lên cười, vỗ vai Dụng:
- Chú mày giỏi! Anh đã chọn người hát chính thì chắc là không thể nhầm. Chú mày mới mười bảy, nếu được đào tạo bài bản chính quy từ bây giờ, đảm bảo thành danh. Tin anh đi!
Dụng gãi đầu, cười khiêm tốn:
- Em học hát từ mấy ông chèo ở quê thôi. Nhưng đúng là được đứng trên sân khấu Nhà hát Lớn, em thấy mình khác. Cảm giác khác lắm anh ạ. Hình như là niềm tự hào. Rồi tập luyện với toàn những người giỏi, đam mê với nghề, em càng thấy yêu và khao khát gắn bó hơn. Nếu có cơ hội, em nhất định sẽ theo học một cách thật bài bản và cống hiến trọn đời cho nghệ thuật, các anh ạ.
Đạo nhìn Dụng, rồi quay sang Phan Tại. Trong đầu anh lại dấy lên những câu hỏi chẳng bào giờ cũ về bạn của mình: Sao gia đình anh có sản nghiệp mà anh không theo nghề kinh doanh để kế nghiệp? Sao lại theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương? Sao anh chẳng học trường lớp nào về dựng kịch hay đạo diễn mà anh lại làm tốt được những việc đó? Phải chăng trước đây, anh cũng bắt đầu niềm đam mê nghệ thuật như cậu Dụng này?
Phan Tại thấy Đạo nhìn mình kiểu đó, dường như đoán được suy nghĩ của bạn, anh cười, giọng sôi nổi:
- Này ông bạn, đừng nói là ông chuẩn bị chất vấn tôi mấy câu cũ rích muôn thuở đấy nhé.
Đạo cười phá lên:
- Ái chà, biết cả tôi nghĩ cái gì cơ đấy!
Phan Tại nói luôn:
- Tôi đã nói với anh rồi, cái tính tôi không hợp gò bó. Làm gì cũng chán, chỉ có làm việc với anh em văn nghệ sỹ là tôi thấy khoái thôi.
- Rồi, khoái tới mức bán phứt cái quán Bạch Phượng, bỏ luôn Hà Nội phồn hoa, mà xuống đây theo tôi là tôi sợ rồi.
Phan Tại nhún vai:
- Bỏ cái vỏ ngoài thôi. Còn cái ruột thì mang theo hết. Quán ấy đến lúc bán thì bán. Tôi có buôn bán được gì đâu, toàn lỗ chổng vó. Nhưng với văn nghệ, với anh em... thì sao mà bán được. Chỉ cần Đạo gọi một tiếng, tôi chẳng nghĩ gì nhiều.
Đạo khẽ gật đầu, ánh mắt sâu lắng:
- Tôi chỉ ngại không lo được chu toàn cho anh em, nhất là những người mà anh kéo từ trên đó về. Tập tành ráo riết, mà điều kiện ăn ở, thù lao không được như ở Hà Thành...
- Ôi dào - Phan Tại khoát tay - Đời nghệ sĩ mà. Tôi chỉ nghĩ, có cơ hội làm điều mình thích, lại giúp được bạn, phục vụ bà con thì... đáng giá chứ!
Dụng nghe vậy, mím môi, rồi buột miệng:
- Em thấy mình may mắn thật. Được đứng giữa sân khấu này, hát đúng những bài hát em yêu, với những con người em kính trọng. Mai sau dù có chuyện gì... em vẫn thấy đáng.
Ba người lặng đi trong giây lát.
Đạo nhìn lên sân khấu, nơi mấy anh em đang trò chuyện rôm rả. Anh nói chậm rãi:
- Tôi thấy ổn rồi đấy. Anh xem cho anh em tổng duyệt toàn bộ chương trình rồi nghỉ hai ngày tới. Phần để dưỡng sức, phần để chỉnh trang lại nhạc cụ, đạo cụ, phục trang.
Phan Tại gật đầu:
- Tôi cũng đang định trao đổi với anh điều đó. Vậy cứ theo thế nhé. Còn giờ vẫn sớm, để tôi cho anh em tổng duyệt lại thêm một lần.
Ba người bạn - một chỉ huy, một nghệ sĩ, một ca sĩ trẻ - cùng lặng lẽ nhìn về sân khấu. Đèn chưa sáng. Rèm chưa kéo. Nhưng trong lòng họ, đêm diễn như đã bắt đầu - rực rỡ, sống động và đầy những tràng pháo tay vang dội.
Phan Tại mím môi, nhưng ánh mắt sáng lấp lánh. Anh hình dung rõ mồn một khoảnh khắc khi tiếng nhạc dạo đầu ngân lên, ánh sáng tràn sân khấu. Và khán giả Hải Phòng sẽ vỗ tay, reo lên đầy phấn khích.
Dụng đứng hơi nghiêng về phía sân khấu, giọng thì thầm như nói với chính mình:
- Em tin, đêm diễn sẽ là một đêm không ai quên được, vì mỗi chúng ta đều sẽ cháy hết mình.
Phan Tại gật đầu, tay khẽ bóp vai Dụng:
- Thế thì càng phải tập cho thật tốt! Chúng ta sẽ cống hiến hết mình cho nghệ thuật, cho Hải Phòng.
- Và cho cả những ngày mai... - Đạo xúc động tiếp lời.
Gió đầu đông len qua khung cửa sổ cao của khán phòng, mang theo mùi nước mặn, mùi gió biển, và cả hơi thở của một thành phố đang chờ được sưởi ấm bằng tiếng nhạc, bằng ánh đèn, bằng tình yêu nghệ thuật và cả tình bạn đẹp đẽ, ấm nồng.
Ngày 18 tháng 11 năm 1946
Trong một căn phòng cạnh hành lang sân khấu nhà hát, Trung đội trưởng Đặng Kim Nở ngồi trầm ngâm trước chiếc bàn gỗ. Ánh đèn mờ nhạt hắt xuống bản sơ đồ vị trí tác chiến đã được anh trải sẵn ở đó.
Kể từ khi cuộc đàm phán Việt - Pháp ở hội nghị ở Fontainebleau không đi tới giải pháp hoa bình, thì ở Hà Nội và Hải Phòng, thực dân Pháp ngày càng trắng trợn, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Cay cú vì thất bại trong âm mưu đảo chính ở Hà Nội, từ ngày 09/10/1946 quân Pháp cho xe tăng, xe bọc thép bao vây các cơ sở của công an thành phố, cản trở hoạt động của Sở thuế quan ở Hải Phòng hòng thiết lập quyền kiểm sát thuế quan từ 15/10/1946. Làn sóng đấu tranh chính trị của nhân dân Hà Nội lại dâng lên mạnh mẽ, phản đối Pháp chiếm đóng sở thuế quan Hải Phòng. Ngày 14/10, nhân dân Hà Nội tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá, lên án thực dân Pháp gây chiến ở Hải Phòng.
Để chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, ngày 19.10.1946, Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, kế hoạch cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Toàn quốc chia thành 12 chiến khu quân sự. Hà Nội là chiến khu XI, đồng chí Nguyễn Văn Trân làm Bí thư Đảng uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu XI. Đồng chí Vương Thừa Vũ làm Chỉ huy trưỏng Mặt trận khu XI. Hải Phòng thuộc chiến khu III, do đồng chí Hoàng Tùng, Xứ uỷ viên trực tiếp phụ trách, đồng chí Hoàng Minh Thảo chỉ huy chiến khu III.
Do tình hình diễn biến căng thẳng như vậy, nên khắp các điểm trọng yếu của thành phố đều có các đội bảo vệ, túc trực và giữ liên lạc thường xuyên, sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng bảo vệ Nhà hát lớn thành phố gồm 13 người, thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn 89, Trung đoàn 41, do Trung đội trưởng Đặng Kim Nở chỉ huy.
Mấy ngày nay, thấy tình hình ngoài kia ngày càng căng thẳng, Đặng Kim Nở cứ có cảm giác bồn chồn. Anh lo có thể buổi biểu diễn sẽ không diễn ra, nhưng nhìn anh em trong Đội tuyên truyền văn hóa hăng say tập luyện, anh lại tự trấn an mình, biết đâu đó chỉ là những lo lắng vu vơ, biết đâu sẽ có diễn biến mới tốt đẹp hơn.
Chính lúc đó, Văn Đạo và Quốc Dụng đi vào. Chưa kịp ngồi xuống ghế, Đạo đã nói luôn:
- Anh em chúng tôi vừa ra phố về. Nghe nói tình hình có vẻ căng lắm phải không anh. Một một số nơi đang bắt đầu vận động nhân dân sơ tán ra ngoại ô.
Đặng Kim Nở gật đầu, mặt đăm chiêu:
- Thông tin cho biết, Trung đoàn lê dương số 3 đã vào đủ các anh ạ. Cả pháo binh Maroc, thiết giáp và hơn ba ngàn quân. Chúng đâu phải chỉ đến giữ gìn trật tự. Chúng đến chiếm.
- Đúng vậy - Dụng tức tối cuộn chặt bàn tay thành nắm đấm - Em nghe kể, liên tiếp mấy ngày nay, chúng gây sự khắp nơi, bắt cóc hàng chục người, đánh dân, bắn trọng thương người dân ngay trên phố, cướp phá chợ, đốt trạm đủ cả.
- Chúng cố tình khiêu khích ta nổ súng trước.
Đặng Kim Nở nói xong chợt nhìn thẳng về phía Đạo và Dụng, rồi ngập ngừng:
- Tôi đang lo....
Đạo nhìn Dụng, rồi nhìn Nở:
- Tôi biết anh lo điều gì.
- Vậy anh có tính đến phương án sẽ phải đưa anh em đội văn nghệ ra ngoài trước, nhỡ chúng có tấn công vào đây thì anh em còn an toàn.
Dụng đứng bật dậy, thái độ tự ái lộ rõ:
- Sao các anh có thể nghĩ như thế. Nhỡ chiến sự có xảy ra, mà chúng em rời đi, thì chả hóa ra chúng em là một lũ hèn nhát cả hay sao?
Nở và Đạo chưa kịp nói gì, Dụng đã tiếp:
- Tất cả 22 anh em chúng em sẵn sàng. Sẵn sàng cho buổi biểu diễn tối mai. Sẵn sàng sát cánh chiến đấu cùng các anh nếu xảy ra tình huống xấu nhất. Chúng em thống nhất với nhau như thế rồi, phải không Đội trưởng Đạo?
Đạo cười hiền, kéo tay Dụng ngồi lại ghế:
- Thì chú hẵng cứ bình tĩnh, để tôi báo cáo với anh Nở cho có đầu có đuôi. Ơ mà còn đầu đuôi gì nữa, Dụng nói xong hết rồi. Đấy là ý kiến chung của cả Đội văn nghệ chúng tôi, Trung đội trưởng ạ, dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, chúng tôi vẫn chọn ở lại!
Ngày 19 tháng 11 năm 1946.
9 giờ sáng. Một sĩ quan Pháp xuất hiện tại cửa Nhà hát, quân phục thẳng nếp, gót giày nện cứng trên nền đá. Hắn không chào hỏi, chỉ lạnh lùng yêu cầu gặp chỉ huy lực lượng bảo vệ tại chỗ.
Trung đội trưởng Đặng Kim Nở bước ra, phong thái điềm tĩnh, gương mặt cương nghị:
- Chào ông. Có phải ông muốn gặp tôi?
Viên sĩ quan nhìn thẳng, giọng khô lạnh:
- Ông là người chỉ huy ở đây?
- Đúng vậy? Ông là ai?
- Tôi là người đại diện của Ban Liên hiệp Việt - Pháp. Tôi đến để báo cho ông biết, quân đội Pháp sẽ sớm có mặt ở địa điểm này. Trong trường hợp đó, đơn vị của ông cùng toàn bộ những người có mặt tại đây bắt buộc phải rời khỏi Nhà hát. Trong mọi tình huống, các ông tuyệt đối không được nổ súng.
Đặng Kim Nở nở một nụ cười, không một giây chần chừ, anh trả lời, chậm rãi và rành rọt:
- Ban Liên hiệp Việt - Pháp không có quyền ra lệnh cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ nhận lệnh từ chỉ huy của mình. Chúng tôi tôn trọng thỏa thuận giữa hai bên, kiềm chế để tránh đụng độ vũ trang. Nhưng nếu quân đội Pháp nổ súng trước - chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ nhà hát và thành phố này.
Hai ánh mắt sắc lạnh chạm nhau. Viên sĩ quan siết môi, hằm hằm quay người rời khỏi nhà hát. Gót giày của hắn nện đều trên nền đá, để lại những âm thanh khô khốc và không khí đặc quánh.
Đúng lúc Nguyễn Văn Đạo cùng Phan Tại từ ngoài bước vào. Họ vừa trở về từ trụ sở Ủy ban hành chính thành phố và nhà in Văn Tân. Trên tay cầm nguyên hai ngàn tờ rơi của chương trình còn thơm mùi mực.
- Chuyện gì thế? - Đạo hỏi, ánh mắt phóng theo bóng dáng viên sĩ quan đang khuất dần ra phía quảng trường.
- Gặp nhau trong ôn hòa, nhưng có mùi thuốc súng. - Nở đáp gọn - Anh giúp tôi triệu tập toàn thể anh em xuống khán phòng nhé, ngay bây giờ.
Khán phòng rộng lớn, những chiếc ghế nhung đỏ sẫm ở những hàng trên cùng của khu vực trung tâm được lấp đầy không phải bởi khán giả, mà bởi chính những người nghệ sỹ và các chiến sĩ tự vệ. Họ ngồi xen lẫn vào nhau. Đặng Kim Nở bắt đầu, giọng rõ và đanh:
- Thưa các anh em, tình hình đang rất căng thẳng. Có thể, khả năng xung đột vũ trang là khó tránh khỏi. Tôi vừa nhận yêu cầu từ một sỹ quan tự xưng là đại diện Ban Liên hiệp Việt - Pháp, rằng nếu quân đội Pháp vào nhà hát, chúng ta buộc phải rời đi.
Cả khán phòng rộ lên tiếng xôn xao phản đối. Một số người đứng bật dậy:
- Vô lý!
- Ai cho phép bọn chúng xâm phạm nơi này?
- Nhà hát là của chúng ta!
- Bọn chúng muốn chiếm nơi này, phải bước qua xác tôi!
- Chúng ta phải quyết chiến với bọn chúng!
- Chúng tôi nguyện quyết từ để bảo vệ nhà hát!
- Quyết tử vì thành phố của chúng ta!
Đặng Kim Nở đưa tay ra hiệu cho mọi người bình tĩnh. Anh đứng thẳng người, ánh mắt lướt một lượt khắp những gương mặt thân thuộc.
- Tôi tin, nếu giặc Pháp định dùng áp lực buộc chúng ta rời khỏi nơi này, thì chúng đã nhầm. Chúng ta sẽ quyết chiến đến cùng để bảo vệ nhà hát, bảo vệ từng tấc đất của thành phố, bảo vệ nền độc lập của chúng ta. Anh em có đồng lòng không?
Mọi người đồng thanh:
- Chúng tôi đồng lòng!
Trung đội trưởng hướng về phía Nguyễn Văn Đạo và Phan Tại. Ánh nhìn của anh chững lại, thoáng chút do dự.
- Nhưng tôi vẫn muốn... anh em văn nghệ sĩ rút khỏi Nhà hát. Giữ được mạng sống, sau này còn tiếp tục cống hiến. Sân khấu có thể dựng lại, nhưng người thì không thể...
Cả Đạo lẫn Phan Tại đồng loạt lắc đầu. Hai mươi hai người trong đội phản ứng quyết liệt. Đạo đứng lên:
- Chúng ta đã thống nhất là cùng sát cánh bên nhau?
Đặng Kim Nở nói, giọng trầm xuống vì lo lắng:
- Nhưng chúng ta không có nhiều vũ khí, chỉ có 1 khẩu tiểu liên, 16 súng trường, lựu đạn và một ít chai cháy.
Một giọng nữ bật lên ở hàng giữa, nhẹ mà như rạch vào yên lặng:
- Có chứ. Chúng tôi ai cũng có vũ khí của mình.
Phan Tại tiếp lời:
- Đúng thế. Tôi có máy ảnh!
Quốc Dụng giơ thẳng cánh tay lên cao:
- Em có những bản hùng ca!
Những tiếng nói khác tiếp tục vang lên, của Kim, của Sinh, của Thi, của Sáu:
- Tôi có cây guitar gỗ này!
- Tôi có cây violon
- Tôi có cây mandoline
- Tôi có cây banjo
- Tôi có đàn clarinette
- Và cả chiếc accordion này nữa!
Đội trưởng Nguyễn Văn Đạo tiếp lời:
- Chúng không phải là vũ khí giết người, nhưng chúng có thể tạo nên sức mạnh để chúng ta đối mặt với quân thù. Nhà hát này, sân khấu này là nơi thiêng liêng nhất với chúng tôi. Nếu kẻ nào muốn xâm lược, muốn chiếm đoạt nó - Anh dừng lại, nhìn khắp lượt anh em - thì chúng tôi nguyện quyết chiến đến cùng.
Tất cả mọi người đồng loạt đứng dậy, những nắm tay nhất loạt vung lên:
- Quyết tử vì nhà hát! Quyết tử vì thành phố của chúng ta!
Nguyễn Văn Đạo báo tin vui: cho đến tối qua, vé đã được phân phối hết đến các khu phố, bà con rất háo hức mong chờ đêm diễn khai màn. Không khí phấn khởi lan khắp hậu đài. Một vài anh em reo lên: “Thế là đêm nay đông lắm đây!”, “Cả phố Tam Bạc, Cầu Đất, phố Ga, Lạch Tray, Cát Cụt, Phan Chu Trinh, thậm chí cả mạn Gia Viên, Máy Chai chắc bà con sẽ kéo sang đây hết! Sẽ là một đêm ngập tràn cảm xúc với anh em mình”.
Nguyễn Văn Đạo cầm lên tập tờ rơi mà anh cùng Phan Tại mới nhận từ nhà in về. Anh tiến đến các hàng ghế, bắt đầu phát cho từng người. Tờ rơi được in bằng hai màu trắng đen sắc nét, giữa là hình ba chiến sĩ Vệ quốc quân đội calô, ánh mắt hướng lên bó đuốc đang cháy bừng bừng.
- Hình đẹp quá! - Phan Tại ngắm kỹ, giọng không giấu được xúc động - Những ánh mắt này... không chỉ nhìn vào lửa. Là nhìn về phía trước. Nhìn vào một tương lai đẹp đẽ đang được thắp lên.
Đạo vuốt tay lên mặt của tờ rơi:
- Bó đuốc, biểu tượng của ánh sáng, của niềm tin, của ý chí độc lập và khát vọng hòa bình. Nó là ngọn lửa dẫn dường cho chúng ta vững tin và hướng tới ngày mai tươi sáng.
- Đêm nay, nghệ thuật sẽ lên tiếng. Để nói rằng: chúng ta vững tin vào ánh sáng.
Ánh đuốc trong tờ rơi, dù chỉ in hai màu đen trắng, thì trong lòng các anh lúc này, nó đang cháy lên, hồng rực.
Nâng niu gập gọn cho vào túi ngực, Phan Tại khẽ nhắc:
- Giữ lấy nhé. Biết đâu mai kia, thứ này thành kỷ vật quý giá của anh em mình.
Tất cả lặng đi một nhịp. Rồi Đạo cất tiếng, như để phá tan cái khoảng lặng nghèn nghẹn đó:
- Nào, Ngọc “con”, hãy bắt nhịp cho anh em hát vang bài hát mới của em đi!
Ngọc “con” bắt nhịp. Bài hát đồng thanh vang lên: “Đời là vui, là tươi, là cố gắng lên/ Sao cho chúng mình hăng hái/ Đời là gian nan, là chiến đấu, đừng sầu bi/ Anh em ơi! Chớ dừng chân bước/ Anh em ơi! Chớ dừng chân bước/ Tiến lên đến cùng”.
Tiếng hát vừa dứt, thì vang lên tiếng động cơ rầm rập phía ngoài. Tất cả ào ra phía các ô cửa. Trên quảng trường phía trước nhà hát, một tốp lính Pháp, đông đảo và trang bị đầy đủ, đã dàn đội hình ở đấy. Cùng với những chiếc ô tô và xe bọc thép. Chúng xua đuổi dân, kiểm soát vỉa hè, chiếm luôn phần đường bên hông Nhà hát.
Phan Tại nhanh chóng di chuyển lên tầng hai. Từ ô của kính, anh dùng chiếc máy ảnh Zeiss 3.5 của mình nhanh chóng ghi lại hình ảnh hỗn loạn dưới quảng trường. Anh lia ống kính về phía đầu phố Cầu Đất. Ở đó, bà cụ bán bánh rán vẫn ngồi như mọi khi, bên chảo bánh rán quen thuộc. Nhưng rồi, toán lính Pháp ập đến, một tên giật lấy mâm bánh, đẩy bà cụ ngã dúi xuống hè. Cả tốp lính cười hô hố. Chúng bốc những chiếc bánh nhai ngấu nghiến. Phan Tại chớp được cảnh đó, buột mồm chửi:
“Mả cha mấy thằng lính - nó cướp cả chảo bánh rán của bà già!” - Phan Tại rít qua kẽ răng, tay siết chặt máy ảnh.
Dụng đứng bên cạnh, họa theo:
- Nhìn bà cụ em nhớ đến bà nội của mình. Em mà có súng, em bắn vỡ sọ mấy thằng đó!
16h: Lệnh chuẩn bị chiến đấu được ban hành toàn thành phố.
Cơm chiều được dọn ra sớm ở hành lang phía sau cánh gà. Cơm trắng, cá kho. Mọi người ăn nhanh, lặng lẽ, như thể ai cũng đang canh từng phút từng giây trôi qua.
Phan Tại ngồi ăn cạnh Dụng. Anh không nói gì nhiều. Mắt nhìn xa về phía sân khấu tối. Cơm vừa đưa lên miệng, anh đã bỏ xuống, quay sang kiểm tra lại danh sách tiết mục lần cuối. Lưng áo nghệ sĩ lấm tấm mồ hôi, không phải vì nóng - mà vì hồi hộp.
17 giờ 30.
Đạo cụ được đưa ra sân khấu. Trang phục được treo sẵn theo từng vai diễn, từng tiết mục. Đạo cùng Nở đi một vòng kiểm tra cửa hậu, cầu thang kỹ thuật, khu ánh sáng và các vị trí tự vệ. Ai nấy đều đã sẵn sàng. Các chiến sĩ chốt gác bên trong Nhà hát như bóng người im lặng gắn vào từng cánh cửa, từng hành lang tối.
18 giờ.
Phòng hóa trang sáng đèn. Hàng gương phản chiếu gương mặt các nghệ sĩ - người tô môi, người chải tóc, người cài lại hoa lên đầu. Động tác nhẹ, chậm, gần như theo nhịp tim.
Cô Nhung, diễn viên múa, vừa kẻ mắt vừa khẽ hát thành tiếng đoạn điệp khúc bài hát thứ ba trong chương trình. Tiếng hát nhỏ, không hẳn là để biểu diễn - mà như để nhắc chính mình rằng giọng ca ấy vẫn còn có thể cất lên, dù điều gì đang chờ đợi phía trước.
18 giờ 30.
Sân khấu đã được điểm đèn thử. Phía sau bức màn nhung, Dụng đã mặc xong phục trang - áo lính, thắt lưng gọn gàng, gương mặt đã hóa trang hoàn chỉnh. Anh ngồi trên bục gỗ phía trái cánh gà, tay cầm cây mandoline. Ngón tay khẽ gảy vài nốt, như tập thử. Nhưng nốt nhạc rơi xuống không gian im lìm như một lời thì thầm bị nuốt mất.
18 giờ 45.
Tất cả đã sẵn sàng. Như kịch bản đã định: giờ này là lúc khán giả phải bắt đầu ổn định chỗ ngồi. Đèn sân khấu hạ dần xuống mức nền. Tiếng trống điểm vào mở màn lẽ ra sẽ vang lên sau đó đúng mười lăm phút.
Nhưng...
Không có ai bước vào.
Không tiếng bước chân ngoài cửa lớn. Không tiếng cười rì rầm của khán giả chờ đợi. Không một mệnh lệnh mới. Không thông báo. Không chỉ thị.
Cánh cửa chính của Nhà hát đóng chặt. Những dãy ghế nhung đỏ ở tầng trệt và ban công vẫn nguyên vẹn, hoàn hảo - và tuyệt đối trống rỗng.
Đặng Kim Nở đứng bên tay phải sân khấu, tay chạm nhẹ vào báng súng. Đôi mắt anh đảo qua từng hàng ghế. Không động đậy. Nhưng ánh mắt ấy vẫn bao quát, chờ đợi, và sẵn sàng.
Nguyễn Văn Đạo ngồi một mình ở hàng ghế đầu. Mặt hướng lên sân khấu, nơi tấm rèm nhung vẫn khép kín. Tay anh cầm tờ chương trình được gập làm bốn, giữ chặt trong lòng bàn tay như một vật gì rất quan trọng.
Phan Tại đứng phía sau bức màn, hai tay khoanh lại, mắt nhắm. Không cầu nguyện. Không ngủ. Chỉ là lắng nghe. Lắng nghe một âm thanh nào đó - của bước chân, hay của tiếng súng.
Dụng vẫn ngồi ở mé cánh gà. Cây Mandoline đặt bên cạnh. Anh đã thôi gảy, chỉ nắm chặt hai tay giữa lòng. Gương mặt hóa trang cứng lại như một chiếc mặt nạ, chỉ có đôi mắt là chưa kịp rời khỏi niềm tin rằng đêm nay, ánh đèn vẫn có thể sáng lên.
Trên tầng hai, lối cầu thang lên và nơi ban công kỹ thuật, vài chiến sĩ tự vệ vẫn âm thầm chốt chặt. Các cửa sổ bên hông đã đóng. Đèn rọi đã tắt. Những chiếc bóng im lặng đứng gác như tượng đá.
Khán phòng im lìm. Một im lặng dày đặc. Như một nốt nhạc bị kéo dài quá mức, treo lơ lửng không có đoạn kế tiếp. Mỗi người ở một vị trí. Không ai gọi ai. Không ai cởi bỏ trang phục.
Tất cả ở lại. Đợi. Trong cái đợi chờ ấy, mọi người đều biết rằng, đêm nay sẽ không có một buổi biểu diễn nào. Và chắc rất sớm thôi, sẽ có một vở diễn khác, không lời thoại, không ánh đèn, không khán giả. Nhưng có máu, có lửa. Và có lịch sử.
Ngày 20 tháng 11 năm 1946
Buổi sáng, Hải Phòng vẫn bắt đầu như bao ngày thường. Trời trong, se lạnh. Những gánh hàng rong tỏa ra từ các ngõ hẹp, tiếng rao vang qua phố Tam Bạc, Cầu Đất, quanh khu chợ Cố Đạo còn lác đác người mua. Học sinh vẫn đến trường. Không ai biết rằng, chỉ ít giờ sau, mặt phố sẽ vắng như phố hoang - và cả thành phố sẽ hóa chiến địa.
9 giờ sáng, một chiếc thuyền Trung Hoa chở ét-xăng cập bến, có đủ giấy phép của sở thuế quan, nhưng quân Pháp viện cớ đó là hàng lậu. Chúng tràn lên, lôi kéo thuyền đi. Khi một công an viên Việt Nam tại chỗ yêu cầu làm rõ giấy tờ, lính Pháp nổ súng thẳng vào anh. Máu loang trên mặt gỗ còn chưa kịp khô thì từ sông, một chiếc ca-nô Pháp rồ máy, súng máy quét thẳng vào bến. Hai người dân bị thương. Một công an viên hy sinh tại chỗ khi đang cố che chắn cho dân thường.
Dân chúng nhốn nháo bỏ chạy. Vài tên lính Pháp bị lực lượng tự vệ tước khí giới ngay sau đó, giữ ở một địa điểm bí mật. Nhưng lửa đã bén vào đống rơm khô. Đến khoảng 11 giờ, hai chiếc xe thiết giáp Pháp đã có mặt tại hiện trường. Liên kiểm Việt Nam đến nơi, yêu cầu xe thiết giáp rút khỏi nhưng bị phớt lờ.
Tiếng súng nổ. Rồi nổ liên tiếp từng tràng.
Cả thành phố rùng mình. Người ta hốt hoảng lao về nhà. Những bà mẹ kéo con nhỏ rời nội thành, lũ lượt về phía ngoại ô. Cửa hàng, tiệm quán đồng loạt đóng sập. Những con phố sầm uất bỗng hóa trơ trọi, hoang vắng. Chỉ còn lại những người lính, những chiến sĩ tự vệ, những cô gái đội mũ vải trắng của tổ cứu thương - âm thầm bám trụ, chờ đợi.
Quanh khu ga, xe thiết giáp của Pháp có thổ phỉ trợ lực tràn đến, bắn xối xả vào lực lượng ta. Bộ đội Việt Nam đáp trả. Cuộc xung đột chính thức bắt đầu.
15h30. Hai xe bọc thép và một xe tăng cùng lố nhố lính Pháp vẫn dàn đội hình giữa quảng trường. Tất cả các nòng súng đều chĩa thẳng vào nhà hát.
Khi tiếng súng ran lên từ nhiều phía của thành phố, không khí bên trong Nhà hát căng lên. Trung đội trưởng Đặng Kim Nở xin ý kiến chỉ huy qua bộ đàm. Điện trả lời: “Giữ nguyên lập trường tự vệ. Không nổ súng trước.” Anh truyền lệnh cho đồng đội và không quên nhắc anh em chú ý gia cố thêm các điểm phòng thủ. Mọi người trong tư thế sẵn sàng.
Đoành! Đoành! Đoành!
Nhà hát bất ngờ rung chuyển. Mọi người giật thót, choáng váng! Loạt cối đầu tiên nã vào công trình được coi là trái tim thành phố. Cả khối kiến trúc đồ sộ rùng mình đau đớn. Kính cửa sổ tầng hai vỡ vụn.
Đặng Kim Nở hét to: “Toàn đội, chú ý an toàn! Chủ động phản kích!”
Tạch!Tạch!... Tạch!Tạch!... Loạt đạn tiếp tục bay rát rạt từ phía địch tới, găm vào bức tường và các cánh cửa gỗ phía trước nhà hát. Toán địch vừa bắn vừa xông lên.
Tạch! Tạch! Tạch. Súng bên ta đáp trả chắc nịch. Hai tên lính Pháp đầu tiên gục xuống, Những tên khác tiếp tục xông lên, đạn bay chiu chíu.
Đoành! Một quả đại bác từ phía quân Pháp bắn thẳng vào cửa chính Nhà hát, nơi có hình chiếc đàn Lia, biểu tượng cho âm nhạc. Một mảng gạch vữa rụng xuống, cánh cửa gỗ và cây đàn Lia bị xé nát tươm.
- Chúng bắn cả vào nghệ thuật - Đạo thảng thốt cất lời. Tất cả mọi người như bừng tỉnh. Tiếng hát bật lên: “Bao chiến sĩ anh hùng/Lạnh lùng vung gươm ra sa trường”. Tiếng hát cất lên đầu tiên là của Dụng. Từng người, từng người một - từ hậu đài, từ sau cánh gà, từ ban công - đồng thanh hòa nhịp theo: “Quân xung phong, nước Nam đang chờ mong tay người/Hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời/Ngựa phi nơi xa kìa nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng/Là trang nam nhi/Quyết chiến sa trường/Sống thác coi thường/Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai...”.
Phía ngoài, những tên lính Pháp tiếp tục tiến sát thềm. Tiếng hát với âm hưởng hào hùng ập vào mặt chúng như một trận gió lạ, khiến chúng khựng lại, vô cùng ngạc nhiên. Vài tên đưa mắt nhìn nhau, lưỡng lự.
- Cái quái gì thế này? - Một tên lẩm bẩm.
Tên sĩ quan phía sau gào lên:
- Bắn vào! Tiến lên!
Chúng lại nổ súng quyết liệt. Đạn bay vào cửa lớn, găm vào tường gạch, các ô cửa. Mảnh vỡ bắn tung tóe.
Từ trong nhà hát, súng trường và tiểu liên nhả đạn thẳng vào đội hình quân Pháp, từ cả cửa chính, từ các ô cửa trên tầng 2, tạo thành một màn hỏa lực đan chéo như lưới thép vắt ngang đường tiến của quân Pháp. Đạn cày sát mặt đất, bắn tung bụi đá. Thêm vài tên gục xuống. Chúng không tiến nổi lên bậc thềm ngoài nên hô nhau rút ra xa. Tiếng súng tạm ngừng.
17 giờ 30.
Một lệnh ngừng bắn tạm thời được ban ra. Bên ngoài, quân Pháp không rút. Đội hình vẫn giữ nguyên, nòng pháo và các mũi súng vẫn chĩa thẳng vào Nhà hát.
Không lâu sau, một loạt đạn liên thanh lại bất ngờ dội vào. Kính vỡ tung, rơi loảng xoảng từ các ô cửa cao tầng hai, những mảnh thủy tinh xoáy trong không trung như mưa băng lạnh buốt, găm vào bức tường vàng nhạt của Nhà hát những vết xước dữ dội.
Một trái pháo bắn chếch vào mái hiên. Khói, bụi, tiếng rít xé tai - và rồi tiếng người. Một chiến sĩ trẻ gục xuống gần cánh gà. Đạo lao đến, nâng đầu cậu đặt nhẹ lên đùi. Cậu mở mắt. Đôi mắt ấy dại đi nhưng vẫn cố níu lấy sự sống, níu lấy Đạo như một điểm tựa cuối cùng.
- Sao... yên thế... - Cậu thì thào. Giọng khản đặc, yếu như tiếng gió lọt qua khe cửa - Sao... tự nhiên... em lại muốn nghe... một điệu chèo...
Câu nói rơi vào không gian như một lưỡi dao cắt ngang màn sương. Không ai nói gì. Một khoảng lặng nhói vào tận tim.
Đạo ngẩng đầu, mắt anh long lanh, giọng tuy nghẹn nhưng rành rọt:
- Tại sao, chúng ta không bắt đầu đêm diễn của chính mình... ngay lúc này?
Một vài ánh mắt ngỡ ngàng. Dụng chậm rãi ngồi xuống bục gỗ, nhìn quanh. Đạo tiếp, giọng anh chậm, chắc:
- Biết đâu, chúng ta sẽ không còn cơ hội nào nữa. Biết đâu, đây là lần cuối tiếng hát còn có thể cất lên trong Nhà hát này. Hát đi, hát để cho cả thành phố biết chúng ta vẫn còn ở đây, vẫn bám trụ, vẫn tin, vẫn sống và chiến đấu.
Dụng gật nhẹ, bàn tay run rẩy lướt lên dây mandoline. Anh không hát to. Chỉ vừa đủ vang trong lòng khán phòng - một làn điệu chèo cổ xứ Đông xưa vọng về: “Người ơi, người ở đừng về...”.
Giọng anh run nhẹ, chính tiếng run ấy khiến làn điệu trở nên ám ảnh. Giữa khói bụi và loang máu, giọng hát ấy như một ngọn nến chập chờn nhưng chưa chịu tắt.
Rồi tiếng đàn guitar vang lên. Tiếp đó là tiếng clarinette. Những khúc hát hào hùng cứ thế vang lên. Âm nhạc nối âm nhạc. Giai điệu nối giai điệu: Cùng nhau đi Hồng binh/ Đồng tâm ta đều bước/ Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh/ Nào anh em nghèo đâu/Liều thân cho đời sống/Mong thế giới đại đồng/ Tiến lên quân Hồng.
Ngoài kia, xe thiết giáp của Pháp tiếp tục rền rĩ. Chúng chạy dọc các trục phố: Đại lộ Phan Chu Trinh, phố Bonnal, phố Ga... Tiếng súng vẫn nổ đì đoành.
23 giờ 05.
Tiếng đại bác và súng liên thanh nổ rền. Phía bưu điện, khói đen bốc lên. Những đám lửa khói bắt bùng lên ở những con phố chính.
Đồng hồ tháp chuông nhà thờ điểm đúng 12 giờ. Ngày 21 tháng 11 bắt đầu.
03 giờ 30.
Quân Pháp dàn lại đội hình vây siết. Tất cả các lối vào Nhà hát đều bị bịt kín bởi lính lê dương. Đặng Kim Nở quan sát tình hình, chỉ đạo anh em giãn đội hình, tránh tập trung. Tiếng loa từ phía quân Pháp vọng từ ngoài quảng trường vào: “Yêu cầu tất cả lực lượng trong Nhà hát hạ vũ khí đầu hàng!”
Tất cả vẫn giữ nguyên vị trí. Quốc Dụng bước ra sân khấu, giữa ánh sáng đạn pháo nhập nhòe. Anh lấy hơi và cất lên giọng nam trung mạnh mẽ, rền vang như tiếng trống mở hội giữa lửa đạn: Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc/ Bước chân rộn vang trên đường gập ghềnh xa/ Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước/ Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca/ Đường vinh quang xây xát quân thù/ Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu/ Vì nhân dân chiến đấu không ngừng/ Tiến mau ra sa trường/ Tiến lên, cùng tiến lên/ Nước non Việt Nam ta, vững bền.
Ba phát đại bác 37 ly bắn thẳng vào mặt tiền. Toàn bộ Nhà hát rung chuyển. Những mảng trần vỡ vụn rơi lả tả xuống sàn gỗ sân khấu. Tấm phông cảnh của đêm diễn bị xé toạc một đường dài. Gạch vữa, mảnh thủy tinh vỡ rơi lả tả. Cột cửa gãy ngang. Từ mọi hướng, lựu đạn tiếp tục được ném vào. Đạn liên thanh bắn rát. Lính Pháp tràn lên bậc tam cấp, đồng loạt tấn công. Đặng Kim Nở và một nhóm Vệ quốc đoàn tiếp tục dựng bàn ghế thành công sự chặn đạn. Anh hô lớn:
- Tổ một chốt giữ cửa chính! Tổ hai giữ hành lang và cửa hậu! Tổ 3 chốt các cửa sổ tầng 2. Giữ từng bậc cửa! Quyết không lùi!
Đạn từ phía ngoài tới tấp bắn vào trong. Khói bụi mù mịt. Phan Tại cùng mấy anh em đội tự vệ trấn giữ cầu thang lên tầng hai. Một mảnh pháo sượt ngang mái vòm. Mảng trần phía trên sân khấu sập xuống, sượt qua vai Dụng. Máu túa ra loang đỏ một bên vai, chảy xuống ngực anh.
Lựu đạn và tiểu liên dồn dập dọn đường. Quân Pháp tràn vào như sóng. Quân ta đánh chặn, quyết liệt. Phía sau cánh gà, Cương áp sát tường, súng sẵn sàng nhả đạn. Một tên lính Pháp thò đầu vào qua cửa sổ tầng trệt. Pẳng! Thân xác đồ sộ của hắn đổ gục. Đúng lúc đó, một viên đạn xé gió, găm giữa ngực Cương. Anh chỉ kịp xoay mình, dựa lưng vào khung cửa rồi gục xuống. Trong phòng hóa trang, Liên nép mình sau bàn gương vỡ, khẩu súng trường run lên từng nhịp khi phát đạn xuyên tai vang vọng. Liên bắn trả đến viên cuối cùng. Khi ngã xuống, tay cô vẫn tay ghì chặt khẩu súng, mắt mở trừng đầy căm hận. Giặc tràn vào hành lang chính. Phan Tại lấy chai cháy ném xuống, lửa bùng lên. Kim Nở nổ súng liên tục. Khẩu tiểu liên kêu lạch xạch như lưỡi cưa cuối cùng cắt đôi bóng đêm. Địch chết, ta cũng mất nhiều người. Sinh trúng đạn, máu loang xuống cần đàn mandoline. Anh ngã xuống. Tay vẫn giữ chặt cây đàn.
Hỏa lực và sức tấn công của địch quá mạnh. Tiếng súng bắn trả thưa dần. Toàn bộ lực lượng còn lại hầu hết đều đã bị thương. Trung đội trưởng Đặng Kim Nở lệnh cho mọi người rút lên tầng hai, còn mình ở lại sau cùng, quyết chốt chặn lối lên cầu thang. Quân Pháp ào lên như đàn dơi sắt. Anh rút chốt một quả lựu đạn, ném về phía địch. Không nổ. những viên đạn thù găm vào vai, vào bụng, vào chân anh. Anh rút chốt quả thứ hai và ném đi. Vẫn không nổ. Hai tên lính Pháp xông tới trước mặt. Kim Nở dùng báng súng, lưỡi lê quần thảo với giặc đến khi ngực đẫm máu bởi những vết đạn thù. Anh gục xuống trong tiếng nhạc, tiếng hát vẫn văng vẳng ngân vang trong nhà hát: Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam/ Ôi đất việt yêu dấu ngàn năm/ Việt Nam, Việt Nam muôn năm...
Quân Pháp ào lên tầng, xông vào phòng Nhạc, nơi vẫn phát ra những giai điệu hào hùng. Từ trong phòng, Thi giương súng chờ địch tới, ngắm bắn những phát đạn cuối cùng, nhưng vì vết thương quá nặng, anh đã kiệt sức nên đường đạn không theo ý muốn. Trước khi gục xuống trong làn đạn của kẻ thù, anh còn kịp nhìn sang bên cạnh và thấy Mỹ vẫn ngồi nguyên tư thế biểu diễn, tay ôm chiếc kèn, đôi mắt thanh thản đến kỳ lạ, như thể Mỹ vừa trình diễn thành công bản độc tấu tâm huyết nhất của mình.
Ở lô ghế F đã nhuộm đỏ máu, Khoa nín thở nấp chờ. Anh không có súng, chỉ có cây đàn alto. Khi lính Pháp tràn lên, anh dùng hết sức bình sinh phang cây đàn vào tên đi đầu. Cây đàn vỡ tan. Khoa vật hắn xuống sàn, hai tay siết chặt cổ. Anh ngã xuống sau một nhát dao sâu hoắm vào gáy. Máu trào ra xối xả, nhưng tay anh vẫn ghì chặt tên lính. Tên thứ hai lao vào, định gỡ Khoa ra cứu đồng bọn. Đoành! Một viên đạn xé gió cắm phập vào tay ghế sát cạnh Khoa. Phát thứ hai xuyên đầu tên Pháp, hất hắn đổ gục xuống lưng Khoa. Cả ba nằm đè lên nhau trong im lặng.
Quay trở lại Nhà hát vào hôm sau, để thực hiện nhiệm vụ thu dọn chiến trường, là một toán lính Pháp, dẫn đầu bởi tên sĩ quan già. Y không khỏi bàng hoàng trước cảnh tượng nhà hát bị phá tan hoang cùng thi thể của những chiến sỹ, nghệ sỹ gục ngã bên những nhạc cụ của họ, những thứ đáng lẽ chỉ dùng để tấu lên bao giai điệu tuyệt đẹp cho cuộc đời thì lại trở thành vũ khí để những nghệ sỹ này chiến đấu tự vệ bảo vệ nền độc lập tự do. Đến lô ghế F, tên sĩ quan già khựng lại, không thể kìm nén hơn được nữa, hắn dập gót, đứng thẳng người trong tư thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang vành mũ chào, rồi cúi đầu một cách cung kính. Cả bọn lính Pháp lặng lẽ làm theo.
***
Bản nhạc “Hòa bình” vang lên những giai điệu dịu dàng, sâu lắng. Khán giả vẫn còn lặng đi trong xúc động. Đèn trong nhà hát bật sáng. Tiếng vỗ tay vang lên như sóng. Tràng thứ nhất. Tràng thứ hai. Rồi kéo dài, không ngớt.
Ở hàng ghế F, có một người đang ngồi, lặng đi trong xúc động. Mái tóc bạc, thân người gầy gò, ánh mắt xa xăm xuyên qua ánh đèn và khói sân khấu, như đang nhìn vào một thế giới khác, nơi quá khứ chưa từng ngủ yên.
Tiếng người dẫn chương trình vang lên:
- Trân trọng kính mời Nghệ sỹ Nhân dân Quốc Dụng, nhân chứng lịch sử, tác giả của vở diễn Khúc tráng ca màu đỏ bước lên sân khấu!
Quốc Dụng run run vịn vào thành ghế để đứng lên. Những ngón tay gầy gò của ông trượt trên mép ghế, chạm vào một khoảng trống nhỏ. Một vết lõm tròn, sâu và lạnh. Ông khựng lại.
Vẫn còn đó, vết đạn găm.
Đã 70 năm.
Lỗ thủng trong lô ghế F.
Quốc Dụng đặt tay lên ngực, nơi trái tim ông vẫn đập dồn, như nốt trầm giữ nhịp cho một bản hùng ca dài hơn cả cuộc đời.
Có những bản nhạc vang lên rồi tắt lịm theo năm tháng. Có những sân khấu từng rực sáng rồi vắng lặng trong lãng quên. Nhưng cũng có những khúc ca, những con người, những giây phút, tuy đã đi qua chiến tranh, nhưng vẫn còn mãi ngân vang. Bởi có những nghệ sỹ không chỉ sống để kể lại, mà đã hát bằng máu, múa bằng linh hồn, chiến đấu bằng trái tim không khuất phục.
Và nếu có một khán giả nào đó, một ngày kia ngồi vào lô ghế ấy, bất giác ngón tay chạm phải một lỗ thủng, xin hãy cúi đầu yên lặng một phút và lắng nghe. Biết đâu, bạn sẽ thấy giai điệu của những bản hùng ca ngân lên đâu đó, theo cách mà chúng đã từng được ngân lên ở nơi này, từ trái tim thành phố, từ những người đã đánh đổi máu xương cho hòa bình, độc lập hôm nay. Và để thấy thấm thía hơn ý nghĩa, giá trị của hòa bình và của nghệ thuật. Hòa bình là khi không còn khán phòng nào phải vương máu và mùi lửa đạn. Là khi mỗi lỗ thủng đều trở thành lời nhắc nhở về điều thiêng liêng đã mất để có được cuộc sống tốt đẹp hôm nay. Còn Nghệ thuật, đó là cách để người sống không bao giờ quên người đã khuất. Và cùng chính nghệ thuật là thứ để thức tỉnh lương tri, thức tỉnh những điều tốt đẹp, để người ta nhận ra mình có phải là Người.
Tổng hợp nhiều nguồn
Dưới gốc cây cau cao cao, có một giàn trầu nhỏ mọc quấn quýt bên hàng rào tre. Giàn trầu được bà cụ trồng từ cuối mùa đông năm ngoái. Đó là một giống trầu mới, bà cụ mua ...
Ca sĩ Tuấn Hưng phẫu thuật polyp dây thanh, tạm dừng hoạt động nghệ thuật để hồi phục. Giọng hát của anh bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cần một khoảng thời gian để phục hồi.
Trước khi triển khai trên toàn quốc, xăng E10 được thí điểm tại 3 thành phố Hà Nội, TP.HCM và Hải Phòng từ 1/8. Người dân bắt đầu tập làm quen với xăng pha 10% cồn, nhiều...
Những họa tiết độc đáo như vằn hổ, ngựa vằn, da báo... được nàng Tiktoker Xuân Ca ưa thích trong những thiết kế bikini của mình.
Là người dân tộc Thái, đến từ vùng cao xã Mường Lát, nữ sinh Vi Ánh Ly Na đã nỗ lực không ngừng và trở thành thủ khoa đầu vào lớp 10 của Trường THPT Hàm Rồng, phường Hạc ...
Kết thúc chặng hành trình tại "Sing! Asia", Phương Mỹ Chi nói cô trưởng thành, bình tĩnh hơn, sau những giây phút thăng hoa lẫn bế tắc khi đứng trên sân khấu xứ người.
Không chỉ là nguyên liệu chế biến nhiều món ăn phổ biến, rau ngũ gia bì hương còn được ví như “nhân sâm rừng” nhờ mang lại một số lợi ích cho sức khỏe.
Đối lập những vai ông bố hiền lành, khắc khổ trên màn ảnh nhỏ, NSND Trung Anh bất ngờ góp mặt trong dự án điện ảnh với vai bí hiểm khó đoán.
Ngày xưa, một người đàn ông tên Miller và con trai của ông đem một con lừa ra chợ bán. Họ dắt con lừa đi chậm rãi vì nghĩ rằng làm như vậy sẽ giữ cho con lừa được khỏe mạ...