Trong phổ hệ dòng họ có ghi, ông tổ dòng họ Hoàng Phước vào thế kỷ XV từ Thanh Hóa theo chân đoàn quân nhà Lê vào Nam khai khẩn đất đai cùng một số tộc họ khác. Các vị đầu tiên trong bốn họ chính: Huỳnh, Trần, Lê, Nguyễn đã có công khai khẩn, lập làng tại vùng đất Hội An, công lao đó được ghi nhận tại đình làng Cẩm Phô, số 52 đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hội An là các vị Tiền hiền. Đến thời chúa Nguyễn, họ Hoàng phải đọc trại ra là họ Huỳnh (viết theo chữ Hán thì như nhau) vì họ Hoàng trùng với tên húy của chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.
Thuở xưa, người Việt đi mở cõi về phương Nam, thường mỗi tộc/ họ hay một số tộc/ họ đến một vùng đất để khai khẩn lập làng/ ấp. Sau này, nhiều người các tộc/ họ theo sau tiếp tục công việc của các vị Tiền hiền đi trước gọi là Hậu hiền. Ngài Cao tổ họ Hoàng/ Huỳnh - một trong các vị Tiền hiền ở Hội An, chuyển hài cốt của cha mình từ Thanh Hóa vào chôn cất, mộ phần nằm tại kiệt 73 đường Trần Hưng Đạo, phường Minh An, TP Hội An (Thửa đất số: NTD. 8, tờ bản đồ số: 06, diện tích: 80 m2 ) đã được con cháu trùng tu, nằm ngay trung tâm thành phố Hội An, nay đã thành ngôi mộ cổ có lịch sử bốn trăm năm.
Nghề mộc là một trong những nghề truyền thống lâu đời gắn với sự hình thành và phát triển của các làng/ xã đầu tiên, trong đó có làng Cẩm Phô và đô thị cổ Hội An sau này. Trong nhiều đời liền kề, đàn ông trong họ Huỳnh, rất nhiều người làm nghề thợ mộc và đã trở thành những nghệ nhân, góp phần không nhỏ trong công cuộc dựng xây và phát triển vùng đất Hội An. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, thuộc phái nhất, chi ba, đời thứ 10, có ông Huỳnh Viết Đệ phối hôn cùng bà Nguyễn Thị Minh ở làng Thanh Triêm chỉ sinh ra ông Huỳnh Viết Đảng thì ông bị bạo bệnh mất sớm. Bà Nguyễn Thị Minh tái giá về làm dâu nhà họ Đỗ - Lấy ông Đỗ Quang, một thầy thuốc Bắc nổi tiếng về nghề và có sản nghiệp, người cùng làng Cẩm Nam để vừa đi tiếp cuộc đời còn rất trẻ của mình vừa tìm chỗ dưỡng dục tốt cho con trai.
Tranh của họa sĩ Hà Trần
Câu chuyện bắt đầu từ lúc ông Huỳnh Viết Đảng (Khương), thuộc đời thứ 11 của dòng họ, lúc đó khoảng bốn, năm tuổi, ra ven bờ sông Thu Bồn dạo chơi, chẳng may rơi ùm xuống dòng sông trôi mất hút. Người nhà tìm kiếm loanh quanh tại chỗ ông rơi xuống nhưng chẳng thấy, mọi người lo lắng, trộm nghĩ, chắc ông đã bị thủy thần rước đi. Sau một hồi lâu chờ đợi, từ bến sông phía dưới, người trong làng tình cờ ra sông, thấy một thằng bé đang ngậm chiếc đũa cái, ngửa mặt lên nhìn trời, đang trôi lềnh bềnh. Họ vớt vào xốc nước đứa bé vẫn tỉnh queo, người ta bảo thằng bé được thần Mộc cứu sống, vì ông đang ngậm chặt cây đũa cái làm bằng gỗ, rứa là ông thoát khỏi bàn tay thủy thần.
Vượt qua nhiều gian khó của đứa con mồ côi cha từ nhỏ, ông Huỳnh Viết Khương cố công làm việc và học hành từ rất sớm. Ông được bà mẹ ruột và người cha dượng thương yêu cho ăn học tử tế, ông đã học thông thạo chữ Quốc ngữ, biết đọc, biết viết, hiểu chữ nho và cả tiếng Pháp nhưng không thi cử. Ông đi theo đường lối thực học của các vị chí sĩ yêu nước đất Quảng lúc bấy giờ là các cụ Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, vận dụng tư tưởng “Khai dân trí, chân dân khí, hậu dân sinh”. Ông không muốn làm quan hay làm giàu trong khi đất nước còn nô lệ bởi giặc ngoại xâm nhưng cũng đã biết làm kinh tế để nuôi sống gia đình và góp phần đóng góp cho xã hội.
Ngày còn trẻ, khi còn ở làng Cẩm Nam, từ trước năm 1945, ông đã tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông đã tháo dỡ nhà cửa, cột kèo ngâm dưới ao sâu để thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, dẫn dắt gia đình đi theo Việt Minh vào vùng kháng chiến ở Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, tự túc lương thực, trồng và ăn khoai lang Trà Đỏa thay cơm... Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại, ông trở về với nghề nghiệp của mình, không ham chốn quan trường, ông quan niệm: công thành, thân thoái. Ông nói: “trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết: Công thành, danh toại, thân thoái, thiên chi đạo, nghĩa là công danh hoàn thành rồi thì thoái lui, đó là cái Đạo của trời, không chỉ là sách lược, là trí tuệ con người hiểu được mà còn là người nắm chắc được thời cơ, đạt đến trạng thái nhân sinh tốt nhất”.
Khi đã thấu hiểu được tư tưởng, biết đó là đạo trời thì khi việc lớn đã hoàn thành, ông không cầu quan, không luyến tiếc công sức, biết tùy thời, tùy sức mình mà dừng, nên không bị ràng buộc, lại có thể tránh được tai họa. Nhìn lại lịch sử các triều đại, sau khi góp phần hoàn thành sứ mạng lịch sử của dân tộc thường xảy ra bao biến cố nơi chính trường vì sự tranh giành danh và lợi mà ra, có khi không bảo toàn được tính mạng. Đây chính là cảnh giới cao nhất trong chốn quan trường. Là người thông minh, thích suy nghĩ độc lập, tư tưởng không chịu ràng buộc với những gì đã lạc hậu, bản tính ông ngay thẳng, khí khái của con người Quảng Nam. Ông sống và làm việc theo lời răn dạy người xưa: Nhân tham tài chi tử/ Điểu tham thực chi vong (Con người tham lam tiền bạc bất chính cũng sẽ chết như con chim tham miếng mồi câu nhử). Tư tưởng nhân sinh này theo ông đi cả cuộc đời, đã ảnh hưởng xuyên suốt đến đời các con, cháu và các học trò của ông.
Khi đã trưởng thành về nghề nghiệp, ngoài truyền nghề cho những thanh niên trai tráng trong làng, còn dạy cho ba người con trai: Huỳnh Viết Khả, Huỳnh Viết Chấp, Huỳnh Viết Mách tiếp tục làm nghề thợ mộc. Kế tục theo bước chân ông đến đời cháu, đời chắt vẫn còn giữ cái nghề mộc truyền thống gia đình. Ông Huỳnh Viết Khương dạy làm nghề mộc là chính, dạy học chữ để biết đọc, biết viết, biết tính toán để áp dụng làm nghề. Ông kể lại: “Cũng chỉ có chút ít chữ nghĩa do cha kế dạy và tự học thôi, biết chừng nào dạy chừng nấy, rồi ông lại tiếp tục tìm tòi, học thầy, hỏi bạn nên dần dần hiểu biết nhiều hơn. Cứ như rứa, học cả đời để hiểu rộng, biết nhiều”. Ông nói: “Trước khi làm cái chi lớn lao, thì phải biết học và làm tốt một cái nghề để nuôi sống bản thân và gia đình.”
Sau này khi tuổi đã cao, ông giao lại cho các con và đám học trò làm nghề mộc, ông chỉ làm những sản phẩm tinh xảo về điêu khắc, chạm trổ. Ông tiếp tục học hỏi để biết thêm nghề thiên văn, địa lý, tử vi, phong thủy theo sách sử, lịch và kinh nghiệm dân gian của người Việt để lại. Có lúc nghiên cứu thêm sách Tàu, để giúp xem giờ ngày lành tháng tốt, cho những sự kiện lớn trong làng, xóm, họ/ tộc, đến chuyện sinh, lão, bệnh, tử một vòng đời người. Khi khai trương, mở hàng, làm nhà, cất mộ, việc cúng tế xuân thu hai kỳ, lễ cúng tá thổ, cúng đất... mà người làng cần tới ông. Công việc này ông xem như là việc hành đạo, giúp đời nhưng ông nói đây là công việc xưa bày nay bắt chước, chỉ để tham khảo thôi, còn theo luật nhân quả thì con người nên gieo duyên thiện lành tất sẽ gặp điều may mắn. “Phật tại tâm”, không có Phật, Chúa, thần linh nào có thể cứu rỗi tai qua nạn khỏi khi làm điều ác nhân thất đức cả. Ngay cả chuyện cúng đất đai, đình làng,... cũng là cách thể hiện lòng biết ơn người xưa đã khai phá, lập làng để lại. Chính điều này làm dân làng tin tưởng. Họ cho ông không hù dọa bày chuyện mê tín dị đoan để lấy tiền mà qua đó khuyến khích người dân tin vào bản thân mình, sống hiếu đạo với Tổ tiên ông bà tu thân, tích đức hành xử trong trong ăn ở để nhận lại những điều thiện lành. Phải chăng, ông đã dựa vào tập tục vốn có để truyền bá nội dung tân học cho người nông dân, lao động ở quê nhà?
Từ nhỏ ông đã sống với người cha kế là ông Đổ Quang làm nghề thuốc Đông y nổi tiếng trong làng, các em cùng mẹ khác cha của ông như thầy Thao, thầy Nhì đều theo cha làm thầy thuốc Đông y, nên ông nắm rõ những phương thuốc gia truyền. Nhất là theo kinh nghiệm dân gian mà ông đã tích lũy cả đời. Ngoài hàng rào là cây thúi địt (cây lá mơ) giăng kín, trong vườn là tía tô, sả, gừng, nghệ, ổi, cây bồ công anh, cây đu đủ, cây cam thảo đất, cây cà gai leo, trên giàn thì trái khổ qua (mướp đắng) treo lủng lẵng... Ông thuộc làu từng loại cây cỏ trị bệnh: Cây cỏ ngươi giúp chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ; cây khổ sâm điều trị đầy bụng, khó tiêu; cây quýt gai điều trị đau và sâu răng; cây tầm gửi cây dâu hỗ trợ trị viêm cầu thận; cây dướng chữa đau thần kinh tọa; cây dạ cẩm hỗ trợ trị viêm dạ dày; cây cỏ tranh có tác dụng cầm máu...
Người trong làng do làm lụng vất vả trên đồng, dưới sông, trên biển; nên phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để có cái ăn, cái mặc. Khi trái gió, trở trời, họ nghe lời mấy ông phù thủy nói, có con ma nhập, làm trái ý với thần nên bị phạt... phải cúng, cầu nhưng không hết, lại đến với ông. Ông bắt bệnh và cho thuốc là những cây cỏ trong vườn; có loại sắc uống trực tiếp, có loại phơi khô rồi mới sắc, có loại phải sao trên nồi đất, hạ thổ rồi mới sắc uống, có loại phối với nhau để xông hơi... Nếu vườn nhà không có thì đi tìm để cho người bệnh dùng đúng. Ở làng quê khi xưa, tuy xa mà gần, từ đầu làng đến cuối làng, thậm chí ở những làng xung quanh đều biết nhau cả. Kết quả là rất nhiều người hết bệnh đến cảm ơn, ông nói đó là do “Phước chủ, lộc thầy” mà!
Một lần có người con gái bị điên, gia đình đưa đi các miếu âm hồn, các phủ bà chúa đều không khỏi lại tìm đến ông. Sau khi nghe sự tình của bà mẹ bệnh nhân, ông thắp ba cây nhang trên bàn thờ Tổ rồi giải thích: Mỗi nén hương được thắp lên mang theo lòng tôn kính chân thành của con người trong mối quan hệ với tổ tiên, vong linh thân nhân quá cố cũng như với thần, Phật. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con số ba cũng đại diện cho Tam Đa, tức Phúc (hạnh phúc), Lộc (tài lộc), Thọ (trường thọ). Khi cầu cúng, không cần mâm cao, cổ đầy mà chỉ cần một ly nước trắng đặt giữa sân, thắp ba nén hương khấn vái là đủ. Người ta cầu mong cuộc sống viên mãn, có đủ cả: Thiên, Địa, Nhân là ba yếu tố cơ bản của thế giới, gồm Thiên (trời), Địa (đất), Nhân (người).
Ngoài ra, ba nén hương còn tượng trưng cho sự kết nối vững chắc giữa con người và các vị thần linh, ông bà tổ tiên, nhờ vào đó mà con người mong nhận được sự phù hộ, còn dùng chén nước trong đã được thần linh chứng giám để uống thuốc thì mau khỏi. Nói xong, ông bảo người bệnh nằm sấp trên chiếc giường tre, rồi rút cây roi dâu để trên cửa nhà và cứ như rứa nện thẳng tay vào đít bệnh nhân cho đến lúc cô gái bị đau điếng, không chịu được cái nữa, ngồi dậy: Lạy ơn Thầy con bớt rồi, bớt rồi thầy ơi!.... Ông bảo cha mẹ đưa con về nhà, quay sang cô gái: Còn điên thì mang sang đây, lần sau là no đòn nữa đó nghe! Đúng thật, từ đó về sau cô gái trở lại người bình thường. Cô gái chắc bị rối loạn tâm sinh lý thôi nhưng bị các ma tăng, cô đồng vẽ vời thêm chuyện nên tiền mất, tật mang. Cái kiểu chữa bệnh điên không giống ai của ông và dạy học thì bắt trò quỳ trên xơ mít vì không thuộc bài mà bây giờ còn áp dụng chắc chắn bị đi tù mất!
Có người nói với ông: “ Sao ông không làm nghề thầy thuốc, vừa khỏe vừa giàu?”. Ông bảo, người xưa lại có câu “Nhất thế y, tam thế suy! Nghĩa là một đời làm nghề y, ba đời sau con cháu sẽ suy vong. Thầy thuốc dễ kiếm tiền vì có người bệnh nào trả giá đâu, nói chừng nào họ đưa chừng đó, vì tính mạng họ đã giao phó, dẫu có nghèo rớt mồng tơi. Thầy thuốc có thể không giữ được mình mà đánh mất y đức vì tham tiền. Chỉ cần lấy cây thuốc ngoài vườn sao vàng hạ thổ, cán mịn rồi bảo là sâm nhung, mật gấu, cao hổ cốt,... ai biết mà cải? Bằng mọi giá để lấy nhiều tiền thì con cháu đi ăn mày ba đời cũng là ít”.
Hồi ông truyền dạy nghề mộc, không phải chia ra làm từng công đoạn, từng sản phẩm cụ thể, từng nguyên công nhỏ chuyên dụng như hiện nay, mà dạy tổng quát các thao tác như cưa, bào, xẻ, đục, làm mộng để lắp ghép; tô, vẽ, khắc, chạm ,... một hình hài muốn làm. Quá trình học cả hai, ba năm trời! Các thanh niên trong làng, người gần, kẻ xa tập trung về nhà ông ăn, ở lại để học nghề. Ai cần đặt hàng chi thì làm cái nấy: đóng cái ghe, làm cái tủ, cái bàn, cái giường, cái nhà... Mỗi người có thể chạm trổ, khắc, đục... ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Học đến đâu áp dụng thực tế ngay. Ông bà lấy tiền làm ra, phẩm vật cha mẹ học trò mang tới để mua lương thực, thực phẩm nuôi sống gia đình và đám học trò. Cha mẹ học trò cũng nghèo khó, nên những lúc rãnh việc, thầy trò ra đồng, ra bãi cuốc, trồng, gieo, tỉa bắp, sắn, khoai, rau, củ, trái...; xuống sông xúc hến, bắt cá tôm để kiếm cái ăn.
Ngày xưa tuy nghèo mà thầy trò sống và làm việc theo chuẩn mực đạo đức của xã hội bấy giờ. Khi đang còn học cho đến khi thành nghề, bay nhảy tứ chiếng giang hồ, nhưng đối xử với nhau tôn sư trọng đạo, minh bạch thứ bậc “đồng môn”. Cha mẹ học trò với thầy liên hệ mật thiết. Ngày lễ, ngày tết đều thăm hỏi, lễ thầy, thầy trò gặp nhau cung kính lễ phép... Cuộc sống tuy đơn giản, mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao ân tình. Lòng kính trọng, biết ơn của học trò với thầy được cho là chuẩn mực xã hội. Thầy tận tình dạy dỗ, mến yêu, ấm áp nghĩa tình thầy trò, các bạn học cùng thầy sống với nhau chan hòa tình thân yêu, giúp đỡ nhau trong khó khăn, hoạn nạn đời thường. Xét cho cùng, như là quy luật nhân quả của tạo hóa, trong cuộc sống, khi ta cho đi vô tư bao điều thiện lành, ta sẽ nhận lại những điều vô cùng tốt đẹp một cách bất ngờ! Không như bây giờ, ở cả hai phía thầy và trò, quan hệ đã trở nên phức tạp.
Đến năm 1964, sau cái lụt lịch sử năm Giáp Thìn, nhà ông khi mở cửa ra là thấy dòng Thu Bồn ngay trước mặt. Nước đã cuốn trôi cả mảnh vườn trước sân rộng và cả một phần ngôi làng phía trước nhà, giáp mặt với bờ sông. Một cuộc di dời toàn bộ gia đình sang vùng ven thuộc phường Cẩm Phô, nằm về phía Bắc thị xã Hội An gọi là Xóm Mới, nay là phường Tân An định cư trong một khu vườn khá rộng, khu vực này rất cao, nước lụt lớn mấy cũng không bao giờ tới để tiếp tục sản xuất. Đây là vùng đất trống xa khu dân cư tập trung ở đô thị cổ Hội An. Tại đây, tất cả tài sản ông tích cóp trong một thời gian dài, để làm nên ngôi nhà rường ba gian, hai chái. Cẩn thận hơn, ông cho làm một ngôi nhà ngầm dưới đất, vừa làm căn hầm tránh bom đạn, ở cái thời chiến tranh đang diễn ra ác liệt. Tất cả sản phẩm chạm trổ, điêu khắc quý mà ông ưng ý để lại, sách vở, dụng cụ làm nghề,... được sắp xếp kín trong nhà và dưới hầm như một bảo tàng gia đình.
Ông lại tiếp tục công việc của mình nhưng đến mùa xuân Kỷ Dậu năm 1969, đạn pháo đã bắn trúng ngôi nhà, tất cả thành tro bụi, may mắn ông bà thoát chết trong gang tấc. Điều đáng trân trọng đối với ông là khi tuổi già sức yếu, biết mình sẽ về với Tiên tổ, ông miệt mài làm cho kỳ được hai chiếc giá kính, một cái để phổ hệ thờ dòng họ, một để di ảnh thờ chính ông bà. Ông nói, có vẻ phòng xa: “Chẳng lẽ đến nỗi nào, con cháu lại đành lòng bán cả cái giá kính thờ mà ăn!”. Cái quan trọng nhất là ông đã gởi lại những lời nhắn nhủ sau cùng cho các thế hệ con cháu về sau: “Phải biết đoàn kết, yêu thương nhau, giữ gìn truyền thống của ông cha, ra sức học tập với tinh thần tự học, thực học, học tập suốt đời, dù ở hoàn cảnh nào cũng áo rách phải giữ lấy lề!
Trong cuộc sống thì tự đi bằng đôi chân của mình, không phụ thuộc vào ai, như cuộc đời của ông bà – một tấm gương sáng để đời mà soi. Cả cuộc đời của ông luôn thay đổi theo cái mới tiến bộ và thích nghi theo hoàn cảnh, ông luôn tìm tòi sự khác biệt, sự tiến bộ, văn minh của loài người để học tập và vươn tới. Ông mất năm 1980, sau ngày thống nhất đất nước, được hưởng niềm vui khi gặp mặt lại các bạn mình ở hai bên chiến tuyến, nhiều người đã mất vì chiến tranh, người còn lại như hạt gạo trên sàng.
Khi ông yếu sức mà không bị bệnh tật gì, biết trước mình sẽ ra đi nay mai, ông bảo tôi gom hết áo quần của ông trong tủ, sắp xếp ngay ngắn cho vào bao chờ ngày mang theo, còn cái tủ thì sau khi chôn cất ông mang về nhà để đựng sách. Theo tục lệ địa phương, sau khi chết tất cả quần áo đều chôn hay đốt theo người mất. Là cháu nội trai lớn trong gia đình, ông gọi tôi vào dặn dò, trước nỗi niềm xa cách vĩnh viễn người ông kính yêu, tôi òa khóc và hứa sẽ làm theo. Ngày đưa tang ông thật là đông người với mọi mối quan hệ ông đã vun đắp khi còn sống. Tôi nói dối với ba tôi và người thân, sau khi chôn cất ông đến chiều tôi sẽ mang bao quần áo ông ra mã để đốt như lời ông dặn. Khi trời chạng vạng tối, tôi chở bao đựng quần áo của ông trên chiếc xe đạp cà rịch, cà tàng, vác vào để dưới chân mộ, thắp hương khấn vái ông xong rồi ra về. Mọi người đều tin tưởng chuyện tôi làm và đến ngày mở cửa mã, ra mã cúng cũng chẳng ai để ý. Riêng tôi, thấy bao quần áo của ông “không cánh mà bay”...
Tuần sau tôi đi học trở lại, thấy anh bạn nhà ở làng Trường Lệ, gần khu nghĩa địa, là người cùng lớp, tôi biết bạn vốn nhà rất nghèo, có thể đi bộ hàng chục cây số đến trường, quần áo thì vá chằng vá đụp, rứa mà hôm nay có bộ đồ tươm tất, gương mặt ánh lên niềm vui. Nhìn kỹ lại, tôi thấy không phải giống mà chính xác là bộ quần áo của ông khi tôi mang đến mộ và không chôn hay đốt đi... Cái thời buổi sau chiến tranh rất đói khổ, vải vóc, lương thực, thực phẩm đều phải mua bằng tem phiếu theo tiêu chuẩn, nhà nghèo lấy đâu ra mà sắm sửa quần áo, khi cái ăn còn chưa đủ nên việc làm của bạn tôi cũng là chuyện bình thường, đúng như dự đoán của ông tôi khi còn sống.
Đến đời cháu, khi còn là những cậu học sinh tiểu học cho đến trung học, các cháu nội ngoại của ông làm nghề mộc, vừa học, vừa làm để nuôi sống bản thân, có người đã trở thành kỹ sư, kiến trúc sư, tiếp tục học sau đại học, chủ doanh nghiệp... Trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh, gia đình nghèo, đông anh em, muốn được đi học thì phải cố gắng, khắc phục khó khăn. Các thế hệ kế tục ông, kính trọng cuộc đời ông như ngọn đuốc sáng soi đường, một nhân cách sống tử tế, một quyển sách sống. Ông bà không để lại vàng bạc châu báu, nhưng đã để lại đức hạnh một con người để con cháu học tập, dẫu thời thế có đổi thay. Tôi kể chuyện rất kỹ về ông vì ông là ông Nội của tôi, một trong những con người Hội An có nhân cách điển hình để tạo nên một nơi “nhân tình thuần hậu”.
Tổng hợp nhiều nguồn
Dân mạng vẫn tranh cãi quyết liệt chuyện 'ngồi thiền' ở quán cà phê cả buổi mà chỉ gọi một ly nước.
Sau chuỗi ngày khủng hoảng, Đàm Vĩnh Hưng tự nhận thay đổi nhiều, anh sống chậm hơn, không vội vã và dễ tin người. Ca sĩ tìm được điểm tựa vững chắc bên con trai - bé Pol...
Bạn gái cầu thủ Vũ Văn Thanh tiếp tục khiến dân mạng 'xỉu ngang xỉu dọc' khi tung bộ ảnh diện nội y đen siêu 'cháy', khoe body nuột nà không chút mỡ thừa.
Phim kinh dị 18+ "Dưới đáy hồ" dù bị chê bai về chất lượng nhưng vẫn dẫn đầu phòng vé, chấm dứt nhiều tuần xưng vương của "Doraemon".
Gia đình ông Raj dự tính sửa sang lại nhà cửa. Ông đã mua căn nhà này trước đây hai năm, nhưng vẫn chưa sửa sang lại. Nay vợ chồng ông đã có đủ tiền để làm công việc này.
Hai cuốn sách đầu tiên về trí tuệ nhân tạo (AI) trong y học tại Việt Nam là tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai quan tâm đến sự tích hợp giữa (AI) và y học.