Ông Năm ngừng câu chuyện, thở dài. Ánh mắt xa xăm nhìn ra sông Thu Bồn, hoàng hôn đã thả xuống lòng sông những tia tím thẫm. Chờ cho ông rít hết điếu thuốc, tôi hỏi nhỏ:
- Vậy là câu chuyện ngậm ngải tìm trầm rồi có người hóa hổ là thiệt hả ông?
Ông Năm nhả khói thuốc, cặp mắt mơ màng dõi theo từng vòng khói xám, lơ đãng trả lời:
- Thiệt chứ răng không!
Vừa lúc những cơn gió từ đại ngàn Trường Sơn thổi tới khiến mặt sông gợn lên những con sóng lăn tăn như muốn chứng minh cho câu chuyện ông kể là hoàn toàn chân thực. Một lát, ông với tay lấy cây gậy, chống gậy đứng lên và nhìn sang tôi:
- Thôi, chiều hung rồi, tui phải về đóng cửa chuồng gà chớ dạo ni chồn cáo ở mô kéo về rình rập bắt gà miết, mới có hai bữa mà mất mấy con gà choai rồi. Chào cô nghen.
- Dạ, chào ông, chúc ông buổi tối vui vẻ.
Tôi ái ngại nhìn theo đôi chân khập khiễng của ông Năm, lê từng bước nặng nhọc trên con đường mòn men theo bờ sông, lòng tôi dâng lên một niềm thương cảm và chua xót.
Ngày còn nhỏ, tôi từng được nghe cha kể về chuyện ngậm ngải tìm trầm. Cha tôi bảo rằng, muốn tìm được trầm phải lặn lội nhiều ngày, vào tận những nơi thâm sơn cùng cốc với rừng thiêng nước độc. Thức ăn mang theo không bao giờ đủ, người ta đã nghĩ đến một thứ để có thể sinh tồn, đó là “ngải”. Ngải nguyên là một loại củ rừng, người ta đào đem về luyện công phu. Người nắm được bí quyết luyện ngải thường là thầy phù thủy. Họ nuôi ngải bằng mật ong và cho ăn thịt gà. Ngoài ra còn tẩm bổ cho nó bằng nhiều vị thuốc “mọi” quý hiếm. Mỗi khi cho ngải ăn phải niệm thần chú. Ngải rất kỵ những vật ô uế, vì vậy người nuôi phải giấu ở một chỗ kín đáo và sạch sẽ, không cho bất kỳ người lạ nào bén mảng. Luyện đúng một trăm ngày thì ngải trở thành một linh thể. Khi đó người ta có thể ngậm ngải trong miệng đi vào rừng, nó sẽ giúp nuôi cơ thể và trừ tà ma. Nhưng nếu đi một trăm ngày mà chưa trở về thì người ngậm ngải sẽ hóa hổ.
***
Nhà ông thầy Bổng tọa lạc trên một thế đất cao, lưng tựa vào núi, mặt tiền hướng ra sông; hai bên có hai quả đồi thấp đúng theo luật phong thủy “tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ”. Đó là một ngôi nhà cổ ba gian, sườn nhà làm bằng gỗ mít, mái lợp ngói âm dương. Ngôi nhà này là từ đời ông nội ông để lại. Thời trước, gia đình ông khá đông anh em nhưng do có ruộng trâu nên cũng có của ăn của để. Khi chiến tranh lan tràn, đạn bom cày xới, cả làng chẳng làm ăn gì được nên anh em ông mỗi người ly tán một phương.
Năm ấy có một gánh Sơn Đông mãi võ về làng biểu diễn, ông Bổng rất mê, không bỏ sót một buổi diễn nào. Khi gánh võ rời làng thì ông cũng trốn đi theo. Không biết lưu lạc những đâu, mãi đến khi im tiếng súng thì ông mới trở về làng, dẫn theo một cô vợ người Miên. Người cô ta dài ngoẵng, da ngăm đen. Cô thường mặc chiếc áo cánh để lộ hai cánh tay đeo đầy những chiếc vòng bằng đồng
đỏ, phần dưới quấn chiếc xà rông màu đen bằng vải lanh. Hai vợ chồng ông Bổng không có con, sống trong ngôi nhà cổ có vẻ rất nhàn hạ. Sau chiến tranh, người làng đi tản cư từ khắp nơi lục tục trở về. Họ dựng nhà, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái... đều đến gõ cửa nhà ông Bổng để xem ngày lành tháng tốt. Ông Bổng còn kiêm thêm nghề bốc thuốc, nên người ta mới gọi ông bằng “thầy”. Ông chữa các bệnh về da như mụn nhọt lở loét hoặc dời leo rất tài tình. Có người bị cái mụt nhọt sưng tấy thật to trên má liền đến nhờ ông chữa. Ông vẽ một vòng tròn xuống đất, lấy cành cây dâu vạch vài cái vào giữa vòng tròn, lẩm nhẩm khấn. Xong bảo người kia đứng vào giữa vòng tròn, ông lấy bút lông chấm chu sa rồi đánh chéo vào giữa cái mụt nhọt.
Xong xuôi, người kia bước ra khỏi vòng, chờ mười phút sau sờ lên mụt thì thấy đã xẹp, không còn sưng đau gì nữa. Có người bị dời leo đau nhức đến tận xương, ông chỉ cần hỏi tên tuổi người ta rồi viết vào mảnh lá chuối, gói lại. Cũng lẩm nhẩm khấn vái rồi cầm gói lá chuối chạm vào chỗ dời leo, xong đem gói lá chuối ấy vứt xuống sông, người bệnh về nhà ngày hôm sau là khỏi hẳn, vết dời leo đã khô và không còn đau nhức nữa...
Những năm 80 của thế kỷ trước là lúc kinh tế cực kỳ khó khăn. Đời sống chật vật bấp bênh, người làng rủ nhau lên núi tìm trầm, tìm nấm lim xanh đem về bán lậu cho thương lái Trung Quốc để mong một cuộc đổi đời. Không biết ai mách bảo mà người làng cũng tìm đến ông thầy Bổng để xin ngải. Thực ra là đi mua nhưng người ta nói trớ là “xin”. Nghe nói ông Bổng học được bí kíp luyện ngải chính là từ ông bố vợ người Miên. Ông ấy truyền nghề và gả con gái cho. Ông Bổng “cho” ngải người nào là dặn dò kỹ lưỡng người ấy cách dùng: chỉ được ngậm, tuyệt đối không được nuốt và ba tháng mười ngày sau phải nhả ra. Hễ đi rừng thì phải tính ngày mà về, ngày thứ 99 phải rời khỏi rừng và nhả ngải ra đem chôn xuống đất...
***
Trầm được tạo nên từ những cây dó bầu, là loài cây thân gỗ cao chừng bốn năm mét mọc ở nơi núi rừng hiểm trở. Người xưa dùng vỏ của cây này làm nguyên liệu sản xuất giấy nên dó bầu còn được gọi là cây dó giấy. Cây dó bị thương do giông bão, do đá cắt hoặc bị mối làm tổ thì chỗ vết thương ứa nhựa và tích tụ lại, trải qua thời gian sẽ tạo thành trầm. Do vậy trên núi tuy có nhiều cây dó nhưng không phải cây nào cũng có trầm.
Những cây dó bị thương rồi chết khô nhưng phần rễ nằm dưới đất vẫn không bị mục, tất cả nhựa trên cây dồn xuống rễ qua thời gian sẽ tạo thành kỳ nam. Kỳ nam có mùi thơm rất lạ, là sự kết tụ tinh túy của đất trời. Nếu như trầm phải đốt lên mới thơm thì kỳ nam không cần đốt vẫn tỏa hương ngào ngạt, được xếp vào loại sản vật cực kỳ quý hiếm... Kỳ nam mềm như sáp ong, thường có màu đen hoặc nâu sậm. Soi dưới đèn chiếu có thể trông thấy các thớ gỗ hiện lên màu đỏ ánh kim, và lượng dầu rất nhiều nên nhìn hơi ẩm ướt. Người ta phân biệt trầm hương và kỳ nam bằng cách đơn giản nhất là thả vào nước, trầm sẽ nổi lên mặt nước hoặc lơ lửng chìm một nửa, trong khi kỳ nam sẽ chìm hẳn xuống đáy.
Tú, Sang và Mừng là ba người bạn rất thân, rủ nhau lên núi tìm trầm. Sau khi đã xin được ngải của ông thầy Bổng, họ làm lễ tế sơn thần thổ địa, cả người đi và những người ở nhà đều cầu mong may mắn.
Ba người họ bắt đầu lên núi, nhắm hướng mặt trời lặn mà đi. Băng qua những con đường mòn của những người đi củi, họ vào sâu trong núi. Theo kinh nghiệm của những người đi trước, nơi có trầm thường là những cánh rừng già, cây cối um tùm, dây leo chằng chịt. Họ cứ mải miết tìm, không còn đường mòn mà chỉ có vách đá và vực sâu. Tiếng chim hót cũng thưa dần, chỉ còn tiếng gió hú và thác réo. Ban đêm mắc võng trên cây nằm ngủ, nghe tiếng vọng của vượn hú và hổ gầm từ trên đỉnh non cao...
Ba tháng sau.
Ông Năm nghe nói nhóm thanh niên đi trầm đã trở về, ông mừng lắm. Nghĩ con mình thế nào cũng tìm được chút ít của rừng, đem bán lấy tiền xoay xở món nợ từ hồi tháng Hai, khi con Vui đi lấy chồng. Gia đình nghèo quá nhưng con gái theo chồng chẳng lẽ không có được chiếc nhẫn làm của hồi môn? Ông đành đi mượn người bà con xa, hẹn nửa năm sau sẽ trả. Khi nghe thằng Mừng cùng đám bạn đi núi tìm trầm, ông đã tràn đầy hy vọng...
Cả buổi chiều ông Năm thấp thỏm mãi vẫn không thấy thằng Mừng về nhà. Có vẻ nôn nóng, ông bèn đi qua nhà thằng Sang để hỏi. Thằng Sang cứ nói quanh quanh co co, ậm ừ mãi khiến ông càng sốt ruột. Ông đã cảm thấy bực bội, liền bỏ đi sang nhà thằng Tú. Tú ban đầu cũng chối quanh, nhưng thấy ông Năm tỏ vẻ tức giận quá, không còn cách nào đành thuật lại sự tình:
Ba người lên núi được năm ngày, mười ngày... rồi một con trăng đã trôi qua, nhưng vẫn chưa tìm được cây trầm. Họ bàn nhau tách ra thành ba ngả, hẹn nhau đúng ngày rằm thì sẽ quay lại điểm hẹn. Sau một tháng vất vả lặn lội, ba người họ gặp nhau, ai cũng khoe tìm được một mảnh trầm. Đêm, họ đốt lửa ngồi bên nhau trò chuyện để rồi sáng mai tiếp tục lên đường.
Con trăng thứ ba đã tròn vành vạnh. Tú và Sang cũng vừa đến chỗ gốc cây lim bên bờ suối. Họ chờ Mừng đến để cùng khoe chiến lợi phẩm của mình. Nhưng chờ mãi, chờ mãi, họ kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, vầng trăng đã treo cao trên đỉnh núi mà vẫn chẳng thấy bóng dáng của Mừng. Hai người đành leo lên cây tìm chỗ ngủ. Suốt ngày hôm sau và cả hôm sau nữa, Mừng vẫn bặt vô âm tín. Hai người bắt đầu lo lắng. Đã sắp hết hạn đi rừng, phải làm sao đây? Đi tìm thì biết tìm ở đâu? Đợi thêm hai ngày nữa, vẫn chẳng thấy tăm hơi. Tú bấm đốt ngón tay, bỗng hoảng hốt thấy thời gian sắp hết, chỉ còn vỏn vẹn hai ngày. Cả hai đành quyết định rời khỏi chốn rừng thiêng...
Nghe đến đấy, ông Năm tái mặt:
- Rứa là thằng Mừng không về với sắp bay à?
Tú cụp mắt xuống, không dám nhìn ông, nói lí nhí:
- Dạ...
- Trời quơi!
Ông Năm giơ hai tay lên trời, cảm thấy như đất dưới chân sụt xuống, mắt ông tối sầm. Ông cất tiếng kêu tuyệt vọng:
- Trời quơi! Bớ trời! Con đang ở đâu rứa Mừng quơi?!
Ông khuỵu chân, người mềm rũ. Ông ngồi bệt xuống đất, nét mặt thất thần trắng bệch như kẻ chết trôi. Tú hoảng quá dìu ông đứng dậy vào nhà, rồi đi kiếm chai dầu gió...
***
Ông Năm quyết định đi tìm con. “Dù thằng Mừng chỉ còn nắm xương tàn cũng phải đem được nó về nhà”. Ông nghĩ vậy và đeo tay nải lên đường. Trước khi đi ông đã đến gặp thằng Sang và thằng Tú, hai đứa này đã chỉ đường đến nơi chúng hẹn nhau dạo trước. Hai đứa chúng nó bảo nghỉ ngơi ít ngày rồi lại đi, nếu ông chờ được thì cùng đi sẽ tiện hơn. Nhưng ông Năm xót con, nóng ruột không thể chờ đợi, ông nghĩ đi càng sớm thì càng có cơ may cứu được con về.
Suốt năm ngày, ông Năm băng rừng lội suối và đã vượt qua những ngọn núi cao ngất. Một buổi chiều chạng vạng, ông đi đến một con suối lớn. Bên bờ suối có cây lim to ba người ôm, dưới gốc lim có hòn đá tảng trông như con bò nằm ngủ. Trên lưng “con bò” khắc tên ba đứa để làm dấu. Đúng chỗ này rồi. Ông ngồi dựa lưng vào tảng đá, mệt mỏi quá thiếp đi... Bỗng ông nghe có tiếng động lạ, và một hơi nóng tanh hôi phả vào mặt. Ông Năm mở mắt ra... Ối! Ông vội nhắm nghiền mắt lại. Tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Ông lẩm bẩm: cầu trời cầu phật, cầu xin sơn thần thổ địa phù hộ cho con... Con xin lạy ông... con xin lạy ông tha mạng...
Lẩm nhẩm như thế ba bốn lần, dường như đã tạm hoàn hồn, ông hé mắt nhìn: đúng lúc ông hổ thè cái lưỡi dài nhằng định liếm vào mặt ông. Ông Năm thất kinh nhắm nghiền mắt lại, tiếp tục cầu khấn. Chặp sau vẫn không nghe thấy động tĩnh gì, ông liều hé mắt nhìn lần nữa: ông hổ vẫn đứng đấy, nhưng không còn thè lưỡi. Ông không hiểu vì sao ông hổ chưa xé xác mình mà cứ đứng trân trân như thế. Ông chợt thấy trí óc sáng ra, liền nằm im không cựa quậy, giả như người chết. Ông nghe nói hổ không thích ăn thịt con mồi đã chết, nó chỉ thích thịt người và thịt thú tươi sống. Có lẽ nó tưởng ông chết rồi nên không muốn ăn thịt chăng? Ông cứ nằm im giả vờ rất lâu, như muốn thi gan cùng ông hổ....
Màn đêm đã bao phủ núi rừng. Ông Năm nghĩ chắc ông hổ đã chán mà rời đi, bèn mở mắt ra nhìn. Trăng hạ huyền vừa nhô lên, lấp ló sau tán lá. Rừng đêm thâm u dưới ánh trăng mờ càng trở nên ma mị. Ông Năm nhìn quanh... Ôi! Ông hổ vẫn đứng trân trân bên tảng đá, quay lưng lại phía ông, cái đuôi ngoe nguẩy. Bỗng ông hổ quay ngoắt lại. Ông Năm hoảng hồn, nhưng vẫn mở to mắt ra nhìn... Bỗng ông hổ tiến lại gần, thật gần, ông hổ đang cúi xuống sát mặt ông Năm, ông tặc lưỡi: “thôi đành phó thác cho số phận”... Dưới ánh sáng mờ ảo, ông Năm thấy rõ mặt ông hổ..., nhưng không phải mặt ông hổ mà là gương mặt của thằng con ông! Ông cảm thấy lạnh toát từ gáy xuống sống lưng. Ông lắp bắp: “ông hổ... thằng Mừng... thằng Mừng...”
Ông hổ liền nằm phủ phục trước mặt ông Năm. Ông dụi mắt, mở mắt thật to để nhìn cho kỹ: không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là ông hổ mang gương mặt của thằng Mừng! Trí não ông trở nên minh mẫn, ông nhớ có lần nghe người ta kể nhiều người đi trầm bị cọp vồ, chết đi vong hồn không siêu thoát biến thành “ma trành” rồi hóa cọp, cọp rình bắt người thế mạng để siêu sinh... Lẽ nào ...lẽ nào thằng Mừng cũng bị cọp vồ, nay hóa thành cọp đây chăng? Ông Năm đột nhiên khóc hu hu, vừa khóc vừa mếu máo: “Mừng ơi, con sống khôn thác thiêng, nếu đây chính là oan hồn con biến thành hổ thì con hãy xé xác ăn thịt cha đi, cha sẽ vì con mà thế mạng, để cho con siêu thoát. Cha xin con đấy, Mừng ơi”!
Ông hổ như nghe thấu lời ông Năm, liền tiến lại gần, đưa bàn tay lông lá và móng vuốt chạm vào người ông. Ông Năm khẽ rùng mình, nhưng ông không còn sợ hãi mà cảm thấy trong lòng dâng lên một niềm xót thương và đau đớn đến nghẹt thở. Giờ thì ông đã tin chắc chắn rằng đây chính là hóa thân của con mình. Ông chờ đợi cái giây phút được chết như là được hưởng một đặc ân. Ông đưa tay nắm lấy bàn tay lông lá như van xin, như cầu khẩn... Nhưng ông hổ đã rút tay lại, vẫy đuôi và bước đi. Ông Năm như bị thôi miên, cứ thế đi theo trong vô thức. Đầu óc ông rối bời. Thỉnh thoảng ông hổ quay đầu lại, vẫn là gương mặt của thằng Mừng...
Hai nhân vật, một người một hổ, lặng lẽ đi trong đêm thâu. Mặc cho gió ngàn hú từng cơn như gọi ma rừng; mặc cho gai đâm nát mặt. Ông Năm không biết sợ, chẳng thấy đau, cứ cắm cúi bước đi như kẻ mộng du sau đuôi ông hổ.
Gần sáng, ông hổ bỗng dừng lại, vẫy đuôi rồi ngồi thụp xuống. Lấy tay đào đất quanh gốc một cái cây khô. Ông Năm không hiểu chuyện gì nên chăm chú nhìn từng động tác. Ông hổ cứ mải miết đào bới hồi lâu cho đến khi cây gỗ khô trốc gốc, ông hổ kéo bộ rễ cây lên để lộ ra một khối đen đen, tỏa ra mùi thơm ngào ngạt. Ông Năm sửng sốt thốt lên: “kỳ nam”! Ông đã từng nghe nói đến kỳ nam nhưng chưa bao giờ được thấy. Bỗng nhiên hôm nay lại được tận mắt chứng kiến cảnh tượng lạ lùng giữa một không gian kỳ quặc như thế này...
Trời sáng. Đã nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Ông Năm nhìn sang ông hổ thì không phải là gương mặt của thằng Mừng mà chính là mặt hổ, nhưng kỳ lạ là đôi mắt trông rất hiền từ và như có vẻ muốn van xin điều gì đó. Ông cảm thấy đầu óc quay cuồng, chẳng biết thực hay hư. Vậy thì đây có phải thằng Mừng hóa hổ hay không? Răng kỳ cục rứa hè?!! Ông hổ vẫy đuôi, nhảy lên một tảng đá, đứng nhìn ông Năm một hồi rồi đưa bàn tay lông lá lên vẫy vẫy, chặp sau cong đuôi phóng thật nhanh. Trong chớp mắt ông hổ đã biến mất khỏi tầm nhìn, chỉ còn thấy dấu vết ở những cành cây lay động.
***
Ông Năm ra đến cửa rừng thì cũng vừa lúc gặp thằng Tú, thằng Sang cùng hai người nữa đi vào rừng. Họ nhìn thấy ông Năm liền xúm lại hỏi han. Ông Năm vừa mệt mỏi vừa đứt từng khúc ruột, nhưng mấy người kia cứ gặng hỏi mãi, ông đành miễn cưỡng ngồi bệt xuống bãi cỏ kể lại câu chuyện mình vừa trải qua. Nhưng ông giấu biệt chuyện đã đào được kỳ nam, mà chỉ có cây trầm. Bốn người nghe xong thì lắc đầu lè lưỡi, hồn bay phách lạc. Và ai cũng tin rằng thằng Mừng đã hóa hổ, họ cảm thấy sợ quá. Một người có vẻ từng trải nói:
- Vậy là thằng Mừng ham tìm trầm mà quên mất ngày về, nó ngậm ngải quá một trăm ngày là hóa hổ...
Ông Năm bấy giờ mới ngớ ra:
- Có chắc không?
- Dạ chắc.
- Chứ không phải nó bị hổ vồ bắt ăn thịt rồi hóa thành ma trành à?
- Vì thằng Mừng trong cái thân xác con hổ nhưng vẫn nhớ đường, dẫn ông đến chỗ cái cây có trầm đó mà.
Nghe thế, cả mấy người đi theo đều gật đầu, tin rằng có lẽ đúng vậy.
Sau khi đã định thần, bốn người họ xúm vào bảo ông Năm cho xem trầm. Miễn cưỡng, ông đành mở tay nải, lôi ra một miếng trầm to bằng bắp tay, nặng hơn một kí lô, đưa cho họ. Mấy người nhìn kỹ thì đây đúng là trầm, mà là đốt trầm sát mặt đất, màu nâu có nổi vân đen, tỏa mùi thơm và vẫn còn lấm đất...
Họ chuyền cho nhau xem, xem đi xem lại rất kỹ, vừa xem vừa ngửi, rồi lấy tay gõ để nghe âm thanh. Cuối cùng, một người quay qua hỏi ông mà giống như tra khảo:
- Cây trầm này có to không?
- Khá to.
- Khi hổ đào lên ông có thấy dưới gốc có gì nữa không?
- Chỉ có bộ rễ.
- Ông có đem bộ rễ đó về không?
Ông Năm chột dạ, nhưng giả vờ ngó lơ đi chỗ khác, ho mấy tiếng rồi mới trả lời:
- Không!
Bốn người nhìn nhau, nháy mắt. Họ quyết định quay về. Trên đường về tất cả đều hết lời năn nỉ ông Năm chia cho mỗi người một ít “lộc rừng” lấy hên. Nhưng ông bảo:
- Tui đã mất con, chẳng còn thiết tha chi nữa, tui cho mấy chú cũng được. Nhưng ngặt nỗi tui còn nợ người ta một chỉ vàng hồi đám cưới con Vui nên mấy chú ưng lấy thì đổi chỉ vàng. Rứa hỉ?
Bốn người nghe nói đổi chỉ vàng lấy được cục trầm nặng cả kí lô thì mừng hơn bắt được vàng. Ai cũng tranh nhau mua, tuy nhiên, chẳng ai đem theo vàng nên họ đành hẹn với ông Năm là cứ đưa cho họ cục trầm trước đã rồi về nhà sẽ trả vàng sau. Ông Năm không biết đưa cho ai nên bảo họ để ông giữ lại, về nhà hãy tính.
... Đêm xuống. Ông Năm trằn trọc vì nhớ con và đau đớn như dao sắc cứa lòng. Ngày bà Năm đi củi trúng mìn thì thằng Mừng mới lên năm, còn con Vui thì mới biết đi chập chững. Ông thương sắp nhỏ nên dù còn trẻ vẫn không muốn tục huyền, thui thủi một thân gà trống nuôi con. Ông vừa làm cha vừa làm mẹ. Ông hiểu tính nết hai đứa con tận chân tơ kẽ tóc. Thằng Mừng thương cha vất vả mới đi trầm để mong có được một chút lộc rừng. Có lẽ vậy mà nó quên cả ngày về chăng? Càng nghĩ ông Năm càng nhức nhối. Ông chợt có cảm giác miếng trầm này như chứa đựng sinh mệnh của đứa con xấu số. Trong phút chốc, ông quyết định thôi không đổi lấy chỉ vàng nữa. Ông sẽ cất giữ cẩn thận như ôm ấp đứa con yêu quý của mình...
Sáng sớm hôm sau, bốn người muốn đổi chỉ vàng để lấy cục trầm đều đồng loạt gọi cửa. Ông Năm từ trong nhà nói vọng ra:
- Các chú thông cảm, tui không đổi nữa, các chú đi tìm chỗ khác đi nghen! Tất cả đều chưng hửng. Nhưng họ vẫn chưa chịu thôi, cứ kêu réo mãi, rồi la hét, đập cửa, chửi thề...
Ông Năm đã quyết rồi, ông sẽ không bán mua đổi chác gì hết, ông đã mất con, chẳng lẽ còn mất cả “cái vật chứa sinh mệnh” của nó nữa hay sao. Suốt từ hôm ấy cho đến những ngày tiếp theo, ông Năm chẳng có lúc nào được yên thân. Hết người này đến người khác, tốp này đến tốp kia kéo nhau đến năn nỉ ỉ ôi, nhưng ông vẫn chỉ lắc đầu. Bốn người đi trầm gặp ông hôm nọ thì tin chắc rằng ông đã lấy được kỳ nam, chứ không phải chỉ có khúc trầm đó thôi đâu. Tin đồn lan ra, loang xa...thế là khách buôn từ các nơi đổ về nườm nượp.
Ông Năm mệt mỏi quá, chốt chặt cửa lại không tiếp bất cứ ai. Ở trong nhà vẫn nghe bên ngoài lao xao, nhao nhao như cái chợ. Ông ghé mắt nhìn qua khe cửa, chao ôi, một cảnh tượng thật kinh hoàng: Từng hàng dài ô tô, xe máy không biết từ đâu kéo đến, tiếng động cơ, tiếng còi xe inh ỏi. Ông cũng đoán ra, có lẽ đám khách buôn kia đã đánh hơi được kỳ nam nên kéo đến đòi mua. Ông thấy mình thật sáng suốt khi không đem cục kỳ về mà giấu ở một chỗ kín đáo trong rừng. Khi đó ông chỉ nghĩ đơn giản rằng, dẫu thằng Mừng có hóa hổ hay thành ma thì nó vẫn cứ là con ông. Làm sao ông để nó bơ vơ trong rừng được! Rồi ông sẽ lại vào rừng, đến chỗ hòn đá tảng đợi gặp nó, ông sẽ đi gặp con cho đến khi nào hơi tàn lực kiệt mới thôi... Ngay lúc này đây, ông nghĩ đến cảnh tượng bên ngoài mà thấy chán nản vô cùng. Ông lại càng nhớ con đến cồn cào gan ruột. Không chịu đựng được nữa, ông vùng dậy, sửa soạn một bọc lương khô bỏ vào trong tay nải. Ông quyết đi vào rừng “thăm con”!
Ông Năm khoác tay nải, lách cửa sau lẻn ra ngoài. Bọn người nhí nhố đằng trước nhà không để ý, có lẽ họ nghĩ cứ ráng chờ, trước sau gì ông Năm chẳng mở cửa! Dãy xe cộ vẫn nối đuôi nhau dài dằng dặc. Đi một đoạn đường khá xa sắp đến gần chân núi, bỗng có người phát hiện ông Năm “đi trốn”. Cả đoàn người rầm rập đuổi theo. Ông cố sức chạy, đám người càng ra sức đuổi...
- Đoàng!
Một tiếng súng vang lên khô khốc. Ông Năm trúng đạn. Viên đạn găm vào bắp chân trái. Ông quỵ xuống...
Con Vui đi lấy chồng xa, nghe tin ở nhà có chuyện vội về thăm, khi ấy ông Năm đã nằm viện được hai ngày. Nghe rõ sự tình, Vui ôm lấy cha nức nở. Hồi lâu nó nói:
- Chỉ vàng cha cho con, con vẫn giữ đây. Để con đem trả cho bà Ba, sau này làm ăn khấm khá con sẽ mua lại. Chồng con cũng tốt tính, nếu có biết cũng chẳng trách móc chi đâu.
Ông Năm nghe vậy càng thấy tủi, nhưng cũng đành vậy chứ biết tính sao. Khi ông Năm trúng đạn nằm một chỗ, đám người lao tới. Nghĩ ông đem kỳ nam đi trốn, họ lục trong tay nải nhưng chẳng thấy gì thì cảm thấy tức không chịu được. Họ cũng thật đáo để, kéo nhau vào nhà ông lục tung đồ đạc, đào cả nền nhà lên để tìm cũng chẳng thấy đâu. Suốt mấy ngày ông nằm viện vẫn có kẻ lảng vảng quanh nhà...
***
Hai năm sau.
Ông Bổng bỗng nhiên đột tử. Người làng đi viếng nhưng bà vợ ông ta không cho ai vào bên trong, chỉ được đứng ở ngoài thắp hương. Chiều tối, mọi người về hết ông Năm mới lịch kịch chống gậy đến. Ông cũng chẳng biết là chủ nhà không cho ai vào nhà trong, nhưng lúc ấy bà ta lo dọn dẹp bếp núc nên không biết còn có người đến viếng. Ông Năm cứ thản nhiên đi vào, thắp hương xong ngó vô thấy quan tài chưa đậy nắp, chỉ phủ một tấm vải mỏng cho người quá cố. Ông muốn nhìn mặt ông Bổng lần cuối, bèn sè sẹ lật tấm vải phủ trên mặt ra xem...
- Ố ố ố ối...
Ông Năm rú lên thất thanh rồi ngã phịch xuống nền nhà, tay chân bủn rủn. Bà chủ nhà nghe tiếng kêu thì hốt hoảng chạy vào. Thấy ông Năm mặt thất thần nửa nằm nửa ngồi dưới đất, bà hiểu ngay sự tình. Bà chủ nhìn quanh, thấy không còn ai ngoài ông Năm, liền nói:
- Tôi không biết ông vô đây. Thôi, ông đã chứng kiến cảnh này thì tôi cũng chẳng giấu ông làm gì. Nhưng tôi cũng chỉ cho một mình ông biết bí mật này, ông không cần kể với ai. Nghen!
Ông Năm lưỡng lự một chút rồi gật đầu. Bà vợ ông Bổng nói nhỏ vừa đủ nghe:
- Cha tôi truyền nghề cho ông nhà tôi, cốt để giữ lấy nghề. Nhưng cha tôi dặn đi dặn lại rằng: Khi luyện đến con ngải thứ 100 thì phải giải nghệ, nếu không sẽ bị thần ngải bắt. Ông nhà tôi biết vậy, đáng ra đã bỏ nghề rồi, nhưng người làng đi xin ngải cứ năn nỉ mãi, ông ấy giấu tôi luyện thêm mẻ nữa. Bây giờ xảy ra cơ sự này, như ông thấy đó... Tuần trước thấy ông ấy gãi khắp người tôi đã sinh nghi, gặng hỏi thì ông ấy chối. Mấy hôm sau ông ngứa đến nỗi không chịu nổi, lén lấy cái nạo dừa của tôi mà cào da thịt đến chảy máu ròng ròng. Đến hôm qua thì ông ấy lồng lộn trong đau đớn, mặt sưng phồng méo xệch chuyển từ đỏ như gấc sang vàng như nghệ. Đến chiều, ông ấy gầm lên một tiếng rồi tắt thở.
Bà ta kể đến đấy thì ôm lấy ngực, như muốn nén một cơn đau...
***
Đã có lúc tôi nghĩ ngày xưa cha kể câu chuyện ngậm ngải tìm trầm cốt để răn đe các anh em trai nhà tôi đừng ham làm giàu mà lên rừng lên rú, sẽ có ngày mất mạng... Nhưng giờ đây, khi nghe câu chuyện của ông Năm, tôi lại tin là thật. Phải chăng con số 100 trong câu chuyện chính là giới hạn, nó đánh dấu sự kết thúc một hành trình. Cho dù thành công hay thất bại cũng cần sáng suốt để biết dừng đúng lúc, nếu không chúng ta sẽ phải trả giá đắt, bằng cả sinh mạng của mình.
Tôi nhìn ra mặt sông: dòng nước Thu Bồn trong xanh soi bóng những áng mây tím tuyệt đẹp vẫn hối hả về xuôi; từng cơn gió từ đỉnh Trường Sơn thổi tới, mang theo tiếng chim ca và cả những câu chuyện kỳ bí của đại ngàn...
Tổng hợp nhiều nguồn
MỸ - Cái tên Betty Lou Oliver vẫn được nhắc đến như biểu tượng cho sự sống sót phi thường sau sự cố thang máy rơi tự do 75 tầng.
Một nhân viên bán giày đã đưa cho bà khách thử đến 25 đôi giầy. Cuối cùng bà ta lại chọn mua đôi đầu tiên.
Một buổi chiều chạng vạng, ông đi đến một con suối lớn. Bên bờ suối có cây lim to ba người ôm, dưới gốc lim có hòn đá tảng trông như con bò nằm ngủ. Trên lưng “con bò” kh...
Nghệ sĩ Bắc Hải trút hơi thở cuối cùng sáng nay 13/8 sau thời gian bị bệnh tật hành hạ.
Mẫu Air Grand Touring của hãng xe Mỹ Lucid vượt kỷ lục cũ 1.045 km khi thực hiện quãng đường 1.205 km từ Thụy Sĩ sang Đức.
Hiếu Hiền chia sẻ về việc tập gym ở tuổi gần 50, gọi vợ là "siêu nhân", do dự cho con đóng phim vì showbiz nhiều thị phi và những hiểu lầm với vợ "ngoài ngành".
Dương và Thái từng là trẻ đánh giày, sống tạm bợ ở vỉa hè, gầm cầu và "xóm liều nghiện ngập" ven sông Hồng, Hà Nội, nhưng nay cuộc đời họ đã đổi thay.
Thuế cơ sở 1 TPHCM ban hành quyết định cưỡng chế thuế đối với Công ty TNHH J97 Entertainment của ca sĩ Jack.